Hiển thị các bài đăng có nhãn Thư pháp. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Thư pháp. Hiển thị tất cả bài đăng

Xem trình diễn thư pháp vỉa hè 2013

Nhóm tham gia trình diễn (Click phóng to)

Lâu nay, công chúng Việt Nam ít biết nhiều đến khái niệm “trình diễn thư pháp” hay “trình hiện thư pháp” (Calligraphy Performance) qua các phương tiện truyền thông quốc nội (đa phần là những báo đài lá cải), nhưng nhờ đó mà hoạt động hành vi này cũng đã đến được với công chúng phần nào, mặc dù hầu hết số công chúng này, khi tiếp cận cũng chỉ là kiểu tiếp cận và nhận biết theo kiểu “cởi ngựa xem hoa”. Song, dù là ít ỏi, dù là manh mún, dù là bộc phát nơi vỉa hè, hay đôi lúc là nghiêm túc, chỉnh tề, có tổ chức trong các triển lãm ở các gallery, nhưng với việc đã tạo nên một câu chuyện mới, câu chuyện của thư pháp đương tại Việt Nam trong bối cảnh “ấu lão đồng tân” cá mè một lứa của giới viết chữ; hay trọng già khinh trẻ, sủng nhục bất phân của đám đông công chúng mù chữ (Hán) mỗi khi tết đến xuân về ra vỉa hè Miếu Văn xin/mua/ăn mày/cướp chữ.

Từ trình diễn nghiệp dư… nơi qua đường không ai hay

Mấy năm trở lại đây, hoạt động trình diễn thư pháp ở vỉa hè Văn Miếu mỗi khi kết thúc chợ chữ (rằm tháng Giêng) đã gần như có nếp. Những năm trước, hoạt động này còn nằm trong phạm vi hoạch định của một số người, có mong muốn phô bày chính kiến của mình, thông qua hành động trình diễn và tặng chữ tùy tâm cho khách, nhằm phản đối việc các ông già vừa giảo mạo thánh thần vừa làm con buôn có hạng. Nhưng qua năm nay, câu chuyện ấy đã tiến xa hơn một bước, từ việc tuyển chọn các thư gia cũng như nội dung trình hiện tác phẩm, đến việc tổ chức trình diễn đã có phần long trọng, chỉn chu, nghiêm túc cũng như công tác hậu cần cho buổi trình diễn đã dần tiệm cận với cụm từ “chuyên nghiệp”.

Năm nay, tham gia trình diễn có 17 tác giả trẻ. Người lớn tuổi nhất sinh năm 1969 là Lê Thanh Hải, ngưởi trẻ nhất thuộc thế hệ cuối 8X. Gần hết trong số các tác giả đều đã tốt nghiệp đại học hoặc trên đại học. Họ từng là cán bộ các viện, các câu lạc bộ có chuyên ngành liên quan đến văn tự học và thư pháp, như viện Hán Nôm, viện KHXH&NV, viện Văn học v.v… Họ có những người từng du học tại hải ngoại các chuyên ngành về ngôn ngữ học, văn bản học, hội họa v.v… Nói một cách ngắn gọn là, họ là những người Thực Học. Họ say mê thư pháp, có ước mơ trong sáng và đầy nghiêm túc về phân môn mình đang theo đuổi. Lại phải nói một cách khác, họ có ước mơ của một danh gia. Ước mơ đó thể hiện qua việc họ đã âm thầm tiếp nhận di sản của ông cha, rồi truy cầu cái cổ vận của thư pháp cổ điển, tiếp cận các thể chữ đã thành tựu của thư pháp Trung Hoa như triện, lệ, khải, hành thảo… Với những gì đã thể hiện trên 50 mét lụa màu vàng trải dọc tường Văn Miếu, người ta đã có dịp để nhìn vào kết quả quá trình học tập của các tác giả trẻ này. Mỗi người một lối, mỗi người một vẻ, mỗi người một thể, và hầu như họ đã nhiều ít định được cho mình cái thể tự trên con đường muốn đi xa hơn nữa. Về khải thư, đã xuất hiện lối viết của các nhà Nhan, Triệu; về Hành thư, đã xuất hiện lối viết của cha con nhà họ Vương, về Lệ thư đã thấy bóng dáng của Tào Toàn, về Thảo thư, đã thấp thoáng bóng hình của Hoài Tố, Chung Diêu, Bát Đại Sơn Nhân… Cái dải lụa ngắn củn như chiều dài học thuật về thư pháp nước nhà ấy, lại có thể phô diễn được nhiều đến thế! Thấy mà mừng rơi nước mắt!

Khi tấm lụa được trình hiện đến chữ cuối cùng, nhiều người ngẩn ngơ, nhiều người hoang mang, nhiều người thờ ơ, nhiều người hậm hực. Nhìn một lượt qua các ánh mắt của công chúng đứng vây quanh, cảm nhận bằng phân tâm học một chút thì cảm thấy buồn buồn. Nhưng cái buồn đó được xô đi nhanh chóng, để nhường chỗ cho một niềm vui nho nhỏ, đó chính là những gì đã được thể hiện trên cái dải lụa kia, nó ít nhiều đã trở thành ám tượng, chí ít trong lòng và trong đầu người viết bài này. Nhìn một cách tổng thể cả 50m lụa, một chương pháp lạ mà quen, một vô tình trong hữu ý, một “cố ý đâm xôi xôi lại hỏng”, một “vô tình buông bút bút đơm hoa”… Những trích đoạn nếu cắt nó ra khỏi chỉnh thể ấy thì sẽ hỏng, nhưng nó nằm đó lại là sa tế, lại là xiêm y, lại là xí quách cho cả một hỗn mang chữ, mà không hề rời rạc. Lại có những trích đoạn nếu cắt ra thì có thể làm thiếp cho nhiều người lâm tập, nhưng nằm trong đó thì… hơi phí! Nó giống như việc người ta kê sa-lông vào túp lều tranh và, người khó tính thì dễ buột mồm mà rằng, nó như bông hoa nhài cắm bãi cứt trâu!

Trong buổi trình diễn, tôi ấn tượng bởi những câu phát biểu của các thư gia trẻ, trong đó có lời của họa sĩ Lê Quốc Việt rằng: “Hành động này nhằm phản đối việc bán chữ vô liêm sỉ của các đồ già trên vỉa hè, trả lại cho văn hóa tặng chữ đầu xuân tùy tâm hoan hỷ vẻ đẹp vốn có của nó!”. Câu nói như dao cứa vào những người có chữ “sĩ” trong đầu, nhưng nó quá cũ mèm và quá nhẹ với những người đã tự bán đi, chữ ấy để mua cơm và mua danh ngay tại cái vỉa hè đó rồi. Tôi đã định viết ra đây, trong cái bài này, câu ngạn ngữ “Chó cứ sủa và đoàn người cứ đi”, nhưng nghĩ ngợi rồi lại thôi không viết nữa…

Đến giáng một đòn thậm lực vào cái gọi là “Thư pháp mậu dịch”

Cụm từ “mậu dịch” lâu nay, tôi nghe đám văn sĩ hiện đại lẫn hậu hiện đại gọi đám văn nô hay đám văn sĩ viết thuê cho nhà nước là “văn chương mậu dịch”; lại nghe những người luyện tập võ công thực sự, gọi đám võ sư mở lớp chiêu sinh ồ ạt ở các cung nọ sân kia là “Võ mậu dịch”; nhân đó, tôi cũng muốn dùng khái niệm “Thư pháp mậu dịch” để chỉ những người bán giấy tặng chữ lừa bịp nơi vỉa hè Văn Miếu.

Việc bày tỏ thái độ gay gắt giữa các thư gia với các “ông đồ” già lẫn các “ông rồ trẻ” (mác bị phong và tự phong) xuất phát tự nhiều lý do. Tuy nhiên, tụm chung lại, nó chỉ xuất phát từ mấy việc mà thôi. Thứ nhất, công chúng Việt Nam cần phải biết các “ông đồ” già ngồi ngoài Văn Miếu họ là ai? Người biết chuyện, đi một vòng chỉ thấy gần như hầu hết các cụ ấy đều là học trò về thư pháp (tôi không nói là về chữ Hán) của các thư gia trẻ, ngày thường vẫn đang theo học ở các lớp với trình độ nhập môn cơ bản, thế nhưng, khi ra ngồi ngoài vỉa hè bán/cho chữ, thì bốc giời ăn vả, tự phong cho mình đủ loại tước hiệu, hoặc tự vẽ sử cho mình rằng là con nhà trâm anh thế phiệt, ăn học từ nhỏ v.v… Thứ hai, họ vu khống cho chữ Hán là thứ chữ tâm linh, đẩy câu chuyện ma mị vào trong chữ nghĩa để lừa phỉnh đám người ngu muội cả tin. Thứ ba là vịn danh giòng giống để lòe phỉnh người ngu dốt, như lấy mác của ông bà từng là tác giả nọ, nhà văn kia v.v… để tự phong cho mình cái nhãn tươi tốt, thêm vào đó là núp váy chính khách trong vài hình ảnh ở các hội chợ, chụp ảnh phóng to lên, oai và oách với công chúng mù chữ. Thứ tư là dựa vào cái mác được phong là một trong tứ trụ triều đình về thư pháp, để vẽ hưu vẽ vượn lên giấy rồi chặt chém khách hàng cả tin. (Nhân đây, tôi ân hận thú nhận về việc tạo ra cái gọi là “tứ trụ triều đình” ấy, chính tôi là tác giả. Ngày tôi còn làm ở báo TT&VH, tôi và nhà báo Đỗ Doãn Phương (nay là phóng viên tổng biên tập) đã gọi 4 người ấy là tứ trụ triều đình, bọn bồi bút sau này vơ vào đó và làm nhiều trò PR hợm hĩnh, nhưng nếu phải đày địa ngục thì tôi là người bị đày xuống trước). Với những lý do đó mà các thư pháp trẻ không muốn ngồi chung chiếu với họ, nói như Lê Quốc Việt là “trọng sĩ chứ không trọng nghiệp”, tuổi đời họ đáng tuổi cha chú, nhưng tuổi nghề, e là họ chỉ thấp chưa đến mắt cá nhiều thư gia trẻ mà thôi.

Đòn giáng này chưa biết có làm được gì hữu ích cho nền thư pháp non nớt và yếu đuối của nước nhà hay không, nhưng nó tựa hồ như phát pháo mở màn đầu tiên có trọng lực vào một mục tiêu khá rõ ràng. Đồng thời, nó cũng vén tấm màn thực về nghệ thuật thư pháp với công chúng Việt Nam, và hơn cả, cuộc trình diễn là tiếng nói của thời đại, là chiếc cầu nối giữa đương tại Việt Nam tân nho thanh niên với các bậc tiền bối thánh hiền, đang ngồi trong Văn Miếu và trong 82 văn bia tiến sĩ.

Mường tượng mơ hồ về một tương lai bên vỉa tường miếu Khổng…
Nguyễn Ngọc Thanh trình diễn thư pháp bài thơ "Thu cảnh" của vua Trần Nhân Tông
Kết thúc cuộc trình diễn, tôi xin các thư gia trẻ mấy chữ về cho con trai năm nay vào lớp một, với sự tùy tâm hoan hỷ như đúng với khẩu hiệu các thư gia mong muốn. Thư gia Vũ Thanh Tùng cho con tôi bốn chữ “Anh hùng tuấn kiệt” với lời đề tặng “Cháu tôi giữ lấy“; thư gia Nguyễn Trung Hoàng Long cho con tôi chữ Chí với dòng để tặng “Tặng cháu Kiệt“; thư gia Nguyễn Đại Cồ Việt tặng con tôi bốn chữ “Bộ bộ đăng cao” với lời đề tặng tương tự. Tôi rước chữ về nhà tặng con, lòng vui và hân hoan khôn tả. Nếu như ai cũng như tôi, mỗi năm tết đến xuân về, ra hiên miếu Khổng, thỉnh chữ đầu xuân với lời đề lạc khoản chân thành của các thư gia, và tất nhiên với sự tùy tâm của mình trong hoan hỷ, thì xuân chắc sẽ tươi hơn, tết chắc sẽ đậm hơn, thi vị chữ nghĩa sẽ du dương hơn trong sắc mai vàng đào đỏ. Tôi vẩn vơ nghĩ thế và hình dung về một vỉa hè Văn Miếu trong mơ như thế. Cũng cần nói thêm một chút chỗ này về cái gọi là “tùy tâm hoan hỷ”. Công chúng cũng phải có tinh thần “tự sĩ” trong việc tùy tâm, đừng tự biến mình thành kẻ ăn mày! Giấy bút mực nghiên không phải là đồ từ thiện, và hơn nữa, cách cho quý hơn của đem cho, và cách nhận quý hơn đồ được nhận.

Tuy nhiên, mơ thì ai cũng có quyền, nhưng nếu như giấc mơ mang hình cái thớt (chữ của Trần Quang Quý) thì hiện thực đáng dao phay! (tác giả). Giấc mơ kia nó phụ thuộc quá nhiều vào tầm đón đợi của công chúng Nam Việt, phụ thuộc quá nhiều vào giới truyền thông có học (không phải đám bồi bút vô học), biết chuyên môn hoặc biết hỏi người có chuyên môn khi viết báo. Để những trẻ già khi ra Văn Miếu biết đâu là chân là ngụy, nhận ra đâu là đồ giả, đâu là đồ thật, đâu là kẻ què lại tự xây ngai… Phải đến lúc đó thì cái gọi là “nghệ thuật thư pháp” may ra có chỗ để mà “trình diễn”, và những tổ tiên ông bà của nhân dân (đã chết rồi) hằng năm không bị người nhà đi thỉnh rác về thờ. (Tôi tin nếu Diêm Vương là có thật, ông ấy sẽ cho nhiều người sống lại để chết thêm lần nữa, khi chính họ được cúng những chữ nghĩa cụt què, bẩn thỉu, nhớp nhúa đầy danh lợi lần mùi nước tiểu nơi vỉa hè).

Người viết bài này đứng trên lập trường và quan điểm cá nhân, ủng hộ sự thật và chấp nhận mọi phản biện (nếu có), kể cả chấp nhận cả việc sẽ tạo khẩu nghiệp để đày địa ngục nếu Phán Quan và Diêm Vương cũng mù như công chúng xin chữ ở vỉa hè kia…

Trịnh Tuấn - Nguyên Tiêu 2013

Đôi điều về 3 bản dịch thơ "Hoàng Hạc Lâu" của Thôi Hiệu

Thư pháp Nguyễn Ngọc Thanh
"Hoàng Hạc Lâu" - thư pháp bởi Tử Hư Nguyễn Ngọc Thanh
(Click vào ảnh để xem ảnh lớn hơn)

Blog người hiếu cổ - Trong "Toàn Đường Thi" (gồm 42.863 bài thơ của 2.520 thi sĩ đời Đường) - Nếu chỉ lấy 1 bài thơ tiêu biểu thì chắc là ai cũng chọn đó là "Hoàng Hạc Lâu" cuả Thôi Hiệu ?
"Hoàng Hạc Lâu" thuộc hàng đệ nhất luật thi đời Đường. Tác giả của thiên kỳ thi tuyệt hảo này là Thôi Hiệu (?-754) người Bịện Châu (Khai Phong-Hà nam) đỗ Tiến sĩ năm Khai nguyên 13 (725) làm Quan tới chức Tư huân viên ngoại lang,hàm tứ phẩm (cỡ Vụ phó ngày nay ). Ông tính lãng mạn,ham đánh bạc, rượu chè "của lạ" (thay vợ đến 4 lần).Hồi trẻ thơ ông diễm lệ bóng bẩy, đến cuối đời phong thái cốt cách mạnh mẽ rắn rỏi, sáng tạo tân kỳ có thể theo kịp Giang Yêm, Bão Chiếu... Ông khổ vì ngâm vịnh đến trở bệnh xanh xao hốc hác cả người (hết mình vì thơ  là vậy); Bạn ông nói đùa "không phải Bác bệnh đến như vậy, bởi khổ vì  ngâm thơ nên gầy thôi" !
Lầu Hoàng Hạc xây dựng từ thời Tam Quốc, vốn là "tửu quán" - đó là 1 trong tam đại danh lâu của xứ "Giang Nam hảo "nơi hội tụ cuả các văn nhân tài tử đến đây uống rượu và làm thơ...Theo sách "Cổ đại thi tứ cố sự" thì Thôi Hiệu đề thơ ở Lầu Hac Vàng ở tư thế: thi sỹ nhìn Hán Dương ở bờ sông bên kia, "Tình Xuyên Các" bị che lấp trong ráng chiều ta, bãi Anh Vũ giữa sông phủ một lớp cỏ dày...
Thầy giáo của NK đã từng giảng giải: cái diệu của Thôi Hiệu ở chỗ chỉ một câu tả "Lầu", còn 3 câu kia đều tả "người xưa"... trong đó câu 1 là tả "người xưa", câu 3 là nghĩ "người xưa", câu 4 là ngóng "người xưa", cứ như phớt lờ không nhắc gì đến "lầu".Câu 5-8 tiền giải là tả "người xưa", hậu giải tả "người nay", tuyệt nhiên không tả đến "lầu"... Thi sỹ chỉ nhất ý tựa cao trông xa, riêng thổ lộ hoài bão của mình.Rồi "hương quan hà xứ thị" (ở nơi này) với cây thì "lịch lịch" (in rõ), bãi thì "thê thê" (tươi tốt), riêng có mắt thì ngóng "hương quan" là không biết "hà xứ" (nơi nào). Rồi với hai chữ "nhật mộ" (chập tối lúc chim về tổ, gà vào chuồng) đặt ngang lên câu thơ làm cho 24 con chữ trong 4 câu tiền giải cùng nhảy múa tạo nên tuyệt tác để "đời sau đừng ai làm thơ về Hoàng Hạc Lâu nữa mà chuốc lấy hổ thẹn."
Vâng, đúng là thế: cái diệu của Thôi Hiệu là trong 8 câu, chỉ có một câu nói đến Lầu (câu 2).Câu 3 "Hoàng Hạc nhất khứ bất phục phản" là câu rất đặc biệt: dùng liên tiếp 6 chữ "trắc" trong câu thơ 7 chữ, bất chấp luật bằng trắc, với bút pháp ấy khiến câu thơ mang sức mạnh (nội lực) khác thường.Để làm gì? - để nhấn mạnh cái ý "tiền bất kiến cổ nhân"
- "nhất khứ" là một đi - "bất phục phản" là không trở lại... câu này nói lên cái lẽ vô thường của  mọi người, mọi việc.
Câu 3 đối câu 4: ý là thôi, đừng hoài niệm mãi nữa
Hoàng Hạc Lâu với cái ý tại ngôn ngoại đó là cái độc đáo của Đường thi mà nó là tiêu biểu số 1; và chính cũng vì lẽ đó mà xưa nay các nhà thơ ta đã bị Hoàng Hạc Lâu "thôi miên" ám ảnh, hết thế hệ này đến thế hệ khác lao tâm khổ tứ "dịch" nó, đến nay đã có ngót 100 bản dịch. Theo thiển ý của NK thì có 3 bản dịch đáng lưu ý là:
 
1. Bản dịch của Tùng Vân Nguyễn Đôn Phục
(Nam Phong tạp chí - năm 1923)

Người tiên xưa cưỡi Hạc vàng cút,
Ở đây chi những lầu hạc trơ.
Hạc Vàng đã cút chẳng về nữa,
Mây trắng nghìn năm còn phất phơ.
Sông bạc Hán Dương cây xát xát,
Cỏ lên Anh Vũ bãi xa xa.
Ngày chiều làng cũ đâu chăng tá?
Mây nước trên sông khách thẫn thờ.


Đây là bản dịch khá chối tai (rất trúc trắc) nhưng khá công phu, khá già tay (túc Nho) ; công phu ở chỗ : theo sát nhạc điệu của nguyên tác, sát cả ở những chỗ sai niêm, thất luật.

2. Bản dịch của Tản Đà:

(In ở tạp chí Ngày Nay số 80 , ngày 10-10-1937)
 
Hạc vàng ai cưỡi đi đâu ?
Mà đây Hoàng Hạc riêng lầu còn trơ
Hạc vàng đi mất từ xưa
Ngàn năm mây trắng bây giờ còn bay
Hán Dương sông tạnh, cây bày
Bãi xa Anh Vũ xanh đầy cỏ non
Quê hương khuất bóng hoàng hôn
Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai.
Đây là một bản dịch tài hoa, bay bướm nhẹ nhàng, văn chương trầm bổng theo cung điệu lục bát (đượm hồn dân tộc). Ở nguyên tác đó là cái không khí mang mang day dứt nỗi bơ vơ hiu quạnh của thân phận con người, lạc lõng giữa trần gian trong một chiều nắng tắt.Mà thiên đường thì đã mù mịt lối về.Cái không khí Hàn Lâm ấy đã bị Tản Đà thuần hóa trở nên nhu mì, mềm mại, nhẹ nhàng, trôi chảy trong dòng ca dao (lục bát). Cái HAY của Tản Đà là ở chỗ ấy, nó vào hồn người Việt là vì lẽ ấy, nhưng đó cũng là cái hụt hẫng khi dịch như thế?

3. Bản dịch của Vũ Hoàng Chương

Xưa Hạc Vàng bay vút bóng người,
Nay lầu Hoàng Hạc chút thơm rơi.
Vàng tung cánh hạc đi đi mãi,
Trắng một màu mây vạn vạn đời.
Cây bến Hán Dương còn nắng chiếu,
Cỏ bờ Anh Vũ chẳng ai chơi.
Gần xa, chiều xuống, đâu quê quán?
Đừng giục cơn sầu nữa sóng ơi!


Như ta đã biết : Thôi Hiệu  (con người phát ốm vì làm thơ đã vận dụng hết 10 phần công lực phá vỡ luật thơ thất ngôn, sử dụng 6 thanh "trắc" liên tiếp mới nói được:

Hoàng Hạc nhất khứ bất phục phản
Bạch Vân thiên tải không du du


Để đến độ hùng tâm dũng khí như Đại thi hào Lý Bạch vẫn phải gác bút (đạo bất đắc) chịu thua, cúi đầu ra đi...
Còn thi sỹ Vũ Hoàng Chương sau 1000 năm thì ung dung rút kiếm, giữa trời thơ, phóng con mắt nhìn đời dõi theo cánh hạc đã mù khơi bay mất mà thong thả dụ dắt nó quay về trong cung bậc thất ngôn niêm luật (nói theo Tô Thẩm Huy). Đó là hai câu thực của Vũ bay bổng giữa trời ảo diệu:

Vàng tung cánh hạc đi đi mãi
Trắng một màu mây vạn vạn đời


Một màu vàng lóe lên giữa trời vụt tắt, một màu vàng tung lên rồi vĩnh viễn ra đi, không bao giờ trở lại, nhưng mãi mãi lấp lánh trong tâm tưởng và thâm phận con người (kiếp nhân sinh). Đọc đến câu cuối "đừng giục cơn sầu nữa sóng ơi thì là cả một trời Đường thi bỗng lay động". Giá Thôi Hiệu phục sinh đọc bản dịch của Vũ thì chắc cũng bái phục: "Sóng ơi, sầu đã chín, xin người thôi giục,đó là sóng của bể dâu, hưng phế."
Ta thử đọc lại hai câu theo âm Hán/ Việt:
- Yên ba giang thượng sử nhân sầu
- Đừng giục cơn sầu nữa sóng ơi!


Thì sẽ thấy nội công thâm hậu của Vũ:

- Vàng tung cánh hạc đi đi mãi

Nếu đưa chữ "hạc" lên đầu câu:

- Hạc vàng tung cánh đi đi mãi

Thì cả một trời thơ lung linh tối sầm lại? Thi tài là thế - và có lẽ sau Vũ Hoàng Chương không ai nên dịch lại (Hoàng Hạc Lâu) nữa?

Góc thành nam Hà Nội ngày 27-3-2010
Nguyễn Khôi - Cẩn bút
(Từ Email của nhà văn Nguyễn Khôi gửi Blog người hiếu cổ )

Lời tựa bài "Quy khứ lai hề" của Đào Tiềm

Đào Tiềm
Chân dung Đào Tiềm
Blog người hiếu cổ - Lâm Ngữ Đường từng nhận xét về bài "Quy khứ lai hề từ" 歸去來辭 của Đào Tiềm rằng:
"Không hề làm một vị quan lớn, không có quyền uy, không có sự nghiệp nào cả trừ một tập thơ mỏng và vài ba thiên tản văn, mà Đào Uyên Minh chiếu sáng cổ kim như một ngọn đuốc lớn, và được các văn nhân thi sĩ coi là tiêu biểu cho một nhân cách cao quí nhất. Đời ông vô tư, tự do, khiêm tốn, giản phác...Ông có thiên tài cảm được và tả được một lối sống điều hòa, thiên tài đó tới cái mức hoàn toàn tự nhiên, bình dị mà từ xưa chưa ai đạt được. Bài phú “Qui khứ lai từ”, viết vào tháng 11 năm 405, khi ông quyết định từ chức tri huyện, biểu hiện được tình cảm và thiên tài của ông... Có người cho rằng ông chủ trương “lánh đời”, nhưng không phải vậy. Ông lánh chính trị chứ không lánh đời. Ông vui vẻ trở về cảnh điền viên giữa gia đình. Như vậy kết cục là một sự hòa hợp với thiên nhiên, với đời sống, chứ đâu phải là một sự phản kháng"


Nhân một hôm thư thái tinh thần, tôi có ngồi viết lại phần lời tựa bài "Quy khứ lai hề từ", thấy có chút tâm đắc nên xin chia sẻ cùng bạn đọc cùng xem chữ, cùng hiểu hơn về nội dung:
Nội dung bài tựa như sau:
"Ta nhà nghèo, việc cấy trồng không đủ cung ứng cuộc sống. Con cái đầy nhà, trong chum thì thiếu gạo, cuộc sống chưa biết giải quyết thế nào. Bà con, bạn bè đến khuyên ta ra làm quan. Không có gì cản trở, ta cũng có ý muốn tìm ít tước lộc, nhưng chưa tìm ra. Vừa lúc có việc quan các nơi, ta phụng mệnh quan ra kinh đô và được các chư hầu yêu mến, Thúc Phục cũng thương ta nghèo nên tiến cử ta làm quan lệnh. Bây giờ giặc giã chưa yên, trong lòng ta vẫn cứ sợ phải đi xa; huyện Bành Trạch cách nhà độ hơn trăm dặm, số thu công điền cũng đủ cho cuộc sống. Vì thế ta xin được đến làm quan ở đấy. Không lâu sau, ta lại có ý nhớ nhà, muốn về nhà. Tại sao thế? Bản tính tự nhiên của ta là như thế, nên không thể miễn cưỡng, giả vờ được. Sự đói lạnh tuy là quan trọng thực đấy, nhưng làm ngược lại bản tính mình còn đau khổ nhiều hơn. Trước giờ ta từng theo làm việc với người khác cũng chỉ vì miếng ăn mà phải chịu cảnh tôi mọi. Thế rồi ta cảm thấy thất vọng, bị khích động tủi thẹn cho chí bình sinh. Ta vẫn định làm quan chừng hơn một năm rồi hãy len lén thu xếp áo quần mà về quê. Nhưng chỉ được ít lâu, nghe tin em gái ta là Trình thị mất ở Vũ Xương; vì tình ruột thịt, khiến ta phải mau mau chạy tang và tự động xin từ chức. Từ trọng thu đến mùa đông, ta làm quan được hơn 80 ngày. Theo việc, thuận lòng, ta viết bài “Quy khứ lai hề”.
Tháng 11 năm Ất Tị"
Bài tựa Quy khứ lai hề
Bài tựa "Quy khứ lai hề" - toàn cục (Click để phóng to ảnh)
Quy khứ lai hề
Cục bộ 1
Quy khứ lai hề
Cục bộ 2
Quy khứ lai hề
Cục bộ 3
Quy khứ lai hề
Cục bộ 4

Hòa Thân nịnh vua Càn Long qua thư pháp, thơ phú như thế nào?

Blog người hiếu cổ - Hòa Thân là một nhân vật có tầm ảnh hưởng rất lớn vào triều đại Càn Long nhà Thanh (Trung Quốc). Ông nổi tiếng là một tham quan bậc nhất với gia tài kếch xù mà dân gian đã phải thốt lên rằng: “"Cái Càn Long có Hòa Thân có, cái Càn Long không có chưa chắc Hòa Thân không có". Tuy nhiên, ông thành công nhờ sự sủng ái của vua Càn Long là vì đâu? Vì ông là người cực kỳ có tài và khéo lấy lòng nhà vua. Hòa Thân văn thơ, chữ nghĩa, võ thuật, chính trị đều rất mực tinh thông, chỉ tiếc rằng sa vào tham ô nên hỏng mất thanh danh. Dưới đây xin dẫn thêm về thành tựu về thư pháp, thơ phú của Hòa Thân để thấy được rằng, trong từng lĩnh vực mà ông phấn đấu đều nhằm mục đích lấy lòng nhà vua.

***
Các tác phẩm thư pháp của Hòa Thân được giới phê bình thư pháp các đời đánh giá là: “Thư phẩm và nhân phẩm là một chỉnh thể như là xương và thịt vậy. Nhân phẩm cao hơn thư phẩm, vì thế mới nói rằng Hòa Thân hỏng chữ là do nhân phẩm con người vậy”. Thơ ca của ông được đánh giá là tinh mĩ, nhiều bài cảm động, nhưng nhiều hơn là thơ xướng họa với vua Càn Long. Thành tựu về thư pháp, thơ văn của Hòa Thân rất cao, chữ của ông với chữ của vua Càn Long tựa như đạt đến mức “thật giả lẫn lộn”. Thực ra, Hòa Thân là người cực kỳ tài hoa, thông minh hơn người, ông lại cực tinh thông quyền thuật, nói thông 4 thứ tiếng (Mãn, Hán, Mông Cổ, Tây Tạng), lại giỏi chiếm lĩnh lòng người khác nên rất được hoàng thượng sủng ái. Chính vì được sủng ái hết mực, quyền cao chức trọng nên trở nên tham lam cuồng vọng.
Vua Càn Long vô cùng yêu thích thư pháp (Đọc thêm bài này), Hòa Thân biết vậy nên đã rất dụng công mô phỏng thư pháp của Càn Long, chữ của Hòa Thân viết đẹp đến mức không khác ngự bút của Càn Long là mấy. Vì vậy, say này có một số bức đề ngự bút ở cung điện đều được giao cho Hòa Thân viết thay. Ví dụ, hiện nay tại cung Trùng Hoa tại khu di tích Cố Cung (Trung Quốc) có một bức bình phong đề thơ do chính tay vua Càn Long ngự bút, và tại cung Sùng Kính có một bức biển đề thơ ngự chế do Hòa Thân viết thay Càn Long.
Hòa Thân coi vua như cha, ông và vua Càn Long rất hay họa thơ. Càn Long lại là người cả đời thích làm thơ, vì thế Hòa Thân nắm được tâm lý, cũng khổ học để đạt tới độ tinh mĩ trong phong cách, câu cú và sử dụng điển cố. Trước mặt Càn Long, Hòa Thân biểu hiện là một người vô cùng yêu thích thơ văn, và tất cả các bài thơ của ông đều hợp với quan điểm thẩm mĩ của nhà vua. Rất nhiều khi Càn Long không muốn tự mình làm thơ, bèn lệnh cho Hòa Thân ứng khẩu tức cảnh làm thơ, và lần nào cũng thu về sự hài lòng đối với vị ái khanh này. Trong tập thơ “Gia Lạc đường thi tập” 嘉樂堂詩集 của Hòa Thân có chép rất nhiều thơ do vua Càn Long hạ lệnh làm. Ngoài những bài thơ ngự lệnh làm ra thì những bài thơ khác trong tập thơ cũng rất công phu, có bài rất cảm động lòng người. 
Dưới đây là hình ảnh một số bức thư pháp tiêu biểu của Hòa Thân:
Thánh ưng gia hựu
Tuyền nguyên đan kiều

Thánh chế bình định Đài Loan vịnh Đại Bô Lâm chi chiến thi
Ngự chế cú: Tiên doanh đế lý

Ngự chế đối liên: Lan điện Huyên đình
Nhị Trình tập cú






Danh hiệu "Thiên hạ đệ nhất hành thư" có nên phong cho "Lan đình tự" ?

Blog người hiếu cổ - Ngày nay, chúng ta thường được nghe nói thiếp thư pháp "Lan đình tự" của Vương Hy Chi đời Tấn được mệnh danh là "Thiên hạ đệ nhất hành thư". Tuy nhiên danh xưng này không phải lúc nào cũng được tất cả các chuyên gia cùng đồng tình. Dưới đây Blog người hiếu cổ xin đưa ra một luận điểm của tác giả Trần Truyền Tịch (Trung Quốc) phản đối danh xưng này của "Lan đình tự"
"Lan đình tự" của Vương Hy Chi  -  (Click để phóng to)
Vấn đề chân ngụy của “Lan đình tự” tạm thời không bàn đến, bài viết này chỉ nói đến giá trị nghệ thuật.
Kỳ 6 tạp chí “Văn vật” năm 1965 có đăng tải lại lời của Quách Mạt Nhược 郭沫若 rằng: “Lan đình tự thiếp” có thể khẳng định không phải do Vương Hy Chi viết, giá trị thư pháp của nó không ai có thể bôi bác”. Như thế tức là phủ định tác giả “Lan đình tự là Vương Hy Chi, đồng thời lại thừa nhận trình độ nghệ thuật của tác phẩm này rất cao. “Quang minh nhật báo” ngày 23 tháng 7 năm 1965 có đăng lời phát biểu của Cao Nhị Thích 高二适 ca ngợi “Lan đình tự” hết lời, đương nhiên, quan điểm của Cao Nhị Thích là tôn sùng giá trị nghệ thuật của thiếp này. Quả thật, đến nay, nhiều chuyên gia thư pháp đều cho rằng không ai phủ nhận trình độ nghệ thuật thư pháp của “Lan đình tự”, bất luận nó là chân hay ngụy, đều là “không ai có thể bôi bác” như lời Quách Mạt Nhược.
Người viết từ lúc trẻ đã lâm mô “Lan đình tự” đã 9 năm, cơ hồ như không ngày nào ngừng nghỉ, 20 năm trước, tôi đã từng nói, dưới góc độ so sánh thì, trình độ nghệ thuật thư pháp của “Lan đình tự” không phải là cao nhất (chú ý: không phải tôi nói trình độ không cao, mà là không quá cao), so với thiếp “Tế điệt cảo” 祭侄稿 của Nhan Chân Khanh 颜真卿 thì còn thua hai đẳng cấp. Một số luận giải cho suy nghĩ trên như sau:
"Tế điệt cảo" của Nhan Chân Khanh  -  (Click để phóng to)
  • Thứ nhất: “Lan đình tự” cách điệu không đề cao tính cổ điển, có người nói rằng đây chính là sự sáng tạo của Vương Hy Chi. Sáng tạo thì có thể, nhưg không được cách điệu mà không đề cao tính cổ điển. Tuy nhiên thiếp “Tế điệt cảo” của Nhan Chân Khanh lại làm được điều đó.
  • Thứ hai: Cảnh giới cao nhất của thư pháp là “tản” 散 và “đạm” , nhưng xét ra thì thiếp của họ Vương chưa thực sự làm tốt điều này. Nó hoàn toàn là tác phẩm làm có ý đồ, dụng tâm mà viết. Thiếp của Nhan Chân Khanh thì lại đạt hai điều trên, viết không chú trọng vào vè đẹp nhưng lại vô cùng đẹp.
  • Thứ ba (nói rõ hơn về tản và đạm): Nhanh Chân Khanh đặt bút viết “Tế điệt cảo” và vận bút hoàn toàn tự nhiên, không dùng và không chú trọng một chút kĩ xảo nào. Hầu hết các tác phẩm nghệ thuật có giá trị thì càng ít kĩ xảo thì giá trị nghệ thuật các cao, nếu quá dụng công vào kĩ xảo thì sẽ ảnh hưởng đến nghệ thuật. Trong khi đó, “Lan đình tự” thì thấy hạ bút, chuyển bút rất rõ ràng dụng công, lộ phong quá nhiều, trở nên thành cường điệu không cần thiết. Như vậy cái “đạm” trong thiếp họ Vương là không nhiều, trong khi thiếp của họ Nhan lại không hề mắc lỗi này.
  • Thứ tư: “Tế điệt cảo” tốt tươi mà đẹp đẽ, còn “Lan đình tự” thì đẹp đẽ mà không tốt tươi, chẳng trách có người nói thiếp “Lan đình” như “nữ lang tài”
  • Thứ năm: Cách dụng bút, mặc của “Tế điệt cảo” thông sướng mà khí thế thông suốt, “Lan đình tự” thì thấy rõ sự bố trí sắp xếp, không thể nói hoàn toàn là thông sướng được, khí thế lại kém xa thiếp kia.
  • Thứ sáu: Bút pháp nội tại trong “Tế điệt cảo” chứa rất nhiều biến hóa, lúc khô lúc ướt lúc đậm lúc nhạt, lúc nhanh lúc chậm lúc hoãn lúc gấp, thật khiến cho người xem phải hưng phấn, trong khi đó xem thiếp “Lan đình tự” lại không tạo nhiều cảm giác này.
  • Thứ bảy: “Lan đình tự” tuy nhiên kĩ pháp tuyệt hảo nhưng chưa tạo được sự hùng hồn cho toàn cục.
  • Thứ tám: Khí thế trong thư pháp của “Tế điệt cảo” khai triển, dùng nhiều viên bút mà “Lan đình tự” phần nhiều dùng phương bút, chữ lại quá nhiều mà mau.
Ngoài ra, còn một điểm vô cùng quan trọng, đó là khi xem “Lan đình tự”, chúng ta không thấy có sự thống nhất phong cách với các tác phẩm khác của Vương Hy Chi. Xem lại thiếp “Di mẫu” 姨母của Vương Hy Chi thấy thật đáng tiếc, số chữ quá ít, không thì hoàn toàn có thể cùng đứng vị trí “thiên hạ đệ nhất hành thư” cùng “Tế điệt cảo” chứ không phải là “Lan đình
***
Có thể nêu ra thêm rất nhiều luận điểm nữa chúng tỏ rằng giá trị nghệ thuật của “Lan đình tự” không bằng “Tế điệt cảo”. Nếu nhìn nhận trong hệ thống thư thiếp của Vương Hy Chi, các thiếp như “Sơ nguyệt thiếp”, “Thập thất thiếp”, “Táng loạn thiếp”… của ông mang tính nghệ thuật cao hơn “Lan đình tự” rất nhiều, bút pháp tản mà đạm, viên nhuận mà tự nhiên, không hề có sự cường điệu quá đà như “Lan đình tự.
Cộng với việc “Tế điệt cảo” hoàn toàn là chân tích của Nhan Chân Khanh, “Tế điệt cảo” thực đáng để suy tôn thành “Thiên hạ đệ nhất hành thư”.
______________________________
Nguyễn Ngọc Thanh dịch có chọn lọc từ bài viết 
《兰亭序》不足称为“天下第一行书”《祭侄稿》应为“天下第一行书” 
Tác giả: Trần Truyền Tịch 陈传席.
Link tham khảo: http://www.shxw.com/shulunjingxuan/2008/0610/article_840.html

Nghĩa quân thần khăng khít giữa vua Tống Cao Tông và Nhạc Phi qua một bức tín trát

Blog người hiếu cổ - Nhạc Phi là danh tướng dưới thời Tống Cao Tông, ông nhiều lần được vua Cao Tông ban sắc phong, ta thấy trong đó luôn chứa đựng một sự kỳ vọng của nhà vua đối với ông. Trong đó, bức thủ trát “Tứ Nhạc Phi thủ sắc” (tín trát đích thân nhà vua viết) mang nhiều giá trị, vừa có giá trị lịch sử để ta thấy mối quan hệ khăng khít vua tôi, vừa có giá trị về mặt thư pháp, cho ta thấy phong cách thời trẻ của vua Cao Tông nước Tống. Xin đưa nội dung và dịch nghĩa như sau:
Tứ Nhạc Phi thủ sắc - Tống Cao Tông ngự bút  -  (Click để phóng to hình ảnh)
Chữ Hán:


卿 盛秋之際。提兵按邊。風霜已寒。征馭良苦。如是別有事。宜可密奏來。朝廷以淮西軍叛之後。每加過慮。長江上流一帶。緩急之際。全藉卿軍照管。可更戒() 飭所留軍馬。訓練整齊。常若寇至。蘄陽江州兩處。水軍亦宜遣發。以防意外。如卿體國。豈待多言。付岳飛。
.
Phiên âm:
Khanh thịnh thu chi tế, đề binh án biên, phong sương dĩ hàn, chinh ngự lương khổ. Như thị biệt hữu sự, nghi khả mật tấu lai. Triều đình dĩ Hoài Tây quân bạn chi hậu, mỗi gia quá lự, Trường Giang thượng lưu nhất đái, hoãn cấp chi tế, toàn tịch khanh chiếu quản. Khả cánh giới sức sở lưu quân mã, huấn luyện chỉnh tề, thường nhược khấu chí. Kỳ Dương, Giang Châu lưỡng xứ, thủy quân diệc nghi khiển phát, dĩ phòng ý ngoại. Như khanh thể quốc, khởi đãi đa ngôn.
Phó Nhạc Phi.
.
Dịch nghĩa:
Khanh đương lúc thịnh thu giao hòa, lại phải dẫn binh đi trấn giữ miền biên cương, gió sương đã lạnh, chính chiến gian khổ. Thế nên khi nào mà có sự gì thì hãy viết mật tấu về ngay cho trẫm.Triều đình sau khi bị bọn quân Hoài Tây làm phản thì ngày một thêm lo lắng, một dải thượng lưu sông Trường Giang, đương gặp phải tình trạng nguy cấp, vì thế trẫm chuẩn cho khanh nắm toàn quyền quản lĩnh để chuẩn bị quân mã, huấn luyện mọi thứ chu toàn, để nếu giặc có đến thì hai xứ Kỳ Dương và Giang Châu cũng tiện việc điều động thủy quân đề phòng trường hợp xấu. Như khanh là người biết đặt mình vào lợi ích quốc gia nên trẫm không cần phải nhiều lời.
Giao phó cho Nhạc Phi"
***
Bản thủ trát này không ghi lạc khoản năm tháng, vì vậy chúng ta không thể xác định nó được viết vào thời điểm nào. Nhưng căn cứ vào nội dung và các sử liệu liên quan, nhiều nhà nghiên cứu cho rằng bản này được viết vào sau năm 1133 khoảng một đến hai năm. Lúc này, Nhạc Phi đang được dự vào hàng danh tướng trung hưng, nắm trong tay lá cờ “Tinh trung Nhạc Phi” 精忠岳飛, rất được triều đình mong đợi.
Trong bức trát này, có thể thấy vua Cao Tông đối với Nhạc Phi vô cùng tín nhiệm, rõ ràng đây là bức trát bàn về quân vụ, nhưng bắt đầu lại là những lời hỏi thăm Nhạc Phi: “Đương lúc thịnh thu giao hòa, khanh phải dấy binh ra vùng biên ải, gió sương đã lạnh rồi, chinh chiến thật là gian khổ”, sau đó lại dùng những lời với khẩu khí rất thân mật: “Nếu mà có chuyện gì xảy ra thì hãy mật tấu về cho trẫm”. Qua đó, chúng ta thấy rằng, Cao Tông đối với Nhạc Phi không chỉ có sự tín nhiệm mà còn có tình cảm rất mật thiết. Cuối bức trát, Cao Tông kết thúc bằng câu “Như khanh là người biết đặt mình vào lợi ích quốc gia, trẫm há phải nói nhiều hay sao”, đó chính là mong muốn của nhà vua, đặt trọn niềm tin vào Nhạc Phi.
.
Bản thân tôi sau khi xem qua bức trát này lấy làm mến mộ tình cảm vua tôi, mến mộ tài năng thư pháp của vua Cao Tông, cũng dám lâm mô một bức, tuy nhiên không dám đặt cùng với nguyên bản ở trên, nên đành chép lại nội dung với phong cách khác để tỏ lòng mền mộ.
Tứ Nhạc Phi thủ sắc - Tử Hư Nguyễn Ngọc Thanh  -   (Click để phóng to hình ảnh)