Hiển thị các bài đăng có nhãn Văn học. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Văn học. Hiển thị tất cả bài đăng

Thơ xướng họa giữa vua Quang Trung và Càn Long

1) Bài họa của vua Quang Trung
Đây là bài thơ vua Quang Trung (thực ra là văn thần của ngài) viết họa lại bài thơ xướng của vua Càn Long nhà Thanh. Bài thơ này viết trong nước, khi Quang Trung phụng thụ bài thơ mang về thì mới làm.
Ảnh vua Quang Trung
Vua Quang Trung
 Chữ Hán:
上塞恭瞻玉輅巡
倾葵一念效尊親
波澄桂海遵侯度
日暖蓂階見聖人
萬里梯航歸有極
九重雨露沐同仁
乾行景仰無疆壽
溥率胥陶帝世春

Phiên âm:
 Thượng tái cung chiêm ngọc lộ tuần
Khuynh quỳ nhất niệm hiệu tôn thân
Ba trừng quế hải tuân hầu độ
Nhật noãn minh giai kiến thánh nhân
Vạn lí thê hàng quy hữu cực
Cửu trung vũ lộ mộc đồng nhân
Càn hành cảnh ngưỡng vô cương thọ
Phổ suất tư đào Đế thế xuân.

Nội dung: Đúng kiểu thơ xướng họa ca tụng truyền thống, rằng ta là nước phên dậu chư hầu phải tuân theo chế độ của chư hầu, rồi ca tụng cơ đồ Đại Thanh sẽ mãi mãi đựoc sống trong thời Đế Nghiêu Đế Thuấn.

Dịch nghĩa:
Lên ải cung kính trông vết xe tuần thú của thiên tử
Một niềm ngưỡng vọng cung kính như việc tôn kính cha mẹ mình vậy
Sóng nước biển Nam tuân theo chế độ của chư hầu
Mặt trời ấm áp dưới thềm minh thấy Thánh Nhân
Muôn dặm thang thuyền đều quy về cực
Cửu trùng mưa móc đều được tắm gội cùng điều nhân
Sự vận hành của trời là thế, xin ngước vọng ngài vạn thọ vô cương
Khắp trời đất này đều được hun đúc dưới mùa xuân của đời Đế Nghiêu Đế Thuấn
 

2) Bài xướng của vua Càn Long
Chữ Hán:
瀛藩入覲值時巡
初見渾如舊識親
伊古未文來象國
勝朝往事鄙金人
九經柔遠祇重譯
嘉會於今勉體仁
武偃文修順天道
大清祚永萬千春

Phiên âm:
Doanh phiên nhập cận trị thời tuần
Sơ kiến hồn như cựu thức thân
Y cổ vị văn lai Tượng quốc
Thắng triều vãng sự bỉ kim nhân
Cửu kinh nhu viễn chi trùng dịch
Gia hội ư kim miễn thể nhân
Võ yển văn tu thuận thiên đạo
Đại Thanh tộ vĩnh vạn thiên xuân

Dịch nghĩa:
Bề tôi phên dậu vào chầu thiên tử đúng lúc thiên tử đi tuần thú
Mới gặp đây mà ngỡ như người thân quen đã biết rồi
Theo như xưa thì chưa nghe việc người Tượng Quốc đến
Chuyện bắt cống nạp người bằng vàng của triều trước thật đáng khinh bỉ
Theo như Cửu Kinh trong sách “Trung dung” phải “nhu viễn” (đối đãi mềm mỏng với chư hầu phương xa) vì chịu qua nhiều tầng phiên dịch
Nay hội tốt lành, ta cố gắng thể điều nhân
Võ im văn sửa thuận theo thiên đạo
Vận nước Đại Thanh mãi muôn ngàn xuân

Chú thích:
- Nhập cận: Chư hầu vào trầu thiên tử không theo định kỳ. Theo định kì gọi là triều.
- Ngọc lộ:
Xe thiên tử đi tuần thú
- Quỳ:
thứ rau biểu thị sự tôn kính. Khuynh quỳ: Nghiêng mình tôn kính
- Quế Hải:
tức Nam Hải
- Minh giai:
thềm minh, tương truyền thời Đế Nghiêu có mọc cây minh trước thềm. Do đó tượng trưng cho điềm báo hiệu xuất hiện thánh nhân.
- Hữu cực:
Trong “Kinh thư – Hồng phạm” có trù “hoàng cực” trong chín trù (cửu trù): “Hoàng kiến kì hữu cực”. Cực ở đây là chuẩn tắc.
- Cảnh ngưỡng:
Xuất phát từ Kinh Thi: “Cao sơn ngưỡng chỉ, cảnh hành hành chỉ”
- Phổ suất:
Xuất phát từ Kinh Thi: “Phổ thiên chi hạ, mạc phi vương thổ; suất thổ chi tân, mạc phi vương thần”

P/S: Bài này tôi đã dịch cách đây nhiều năm, và đã đăng lên "Chuyên san thư họa Việt Nam" cùng với phần thư pháp bút sắt tại địa chỉ: http://home.thuhoavn.com/?p=2688

Đôi điều về 3 bản dịch thơ "Hoàng Hạc Lâu" của Thôi Hiệu

Thư pháp Nguyễn Ngọc Thanh
"Hoàng Hạc Lâu" - thư pháp bởi Tử Hư Nguyễn Ngọc Thanh
(Click vào ảnh để xem ảnh lớn hơn)

Blog người hiếu cổ - Trong "Toàn Đường Thi" (gồm 42.863 bài thơ của 2.520 thi sĩ đời Đường) - Nếu chỉ lấy 1 bài thơ tiêu biểu thì chắc là ai cũng chọn đó là "Hoàng Hạc Lâu" cuả Thôi Hiệu ?
"Hoàng Hạc Lâu" thuộc hàng đệ nhất luật thi đời Đường. Tác giả của thiên kỳ thi tuyệt hảo này là Thôi Hiệu (?-754) người Bịện Châu (Khai Phong-Hà nam) đỗ Tiến sĩ năm Khai nguyên 13 (725) làm Quan tới chức Tư huân viên ngoại lang,hàm tứ phẩm (cỡ Vụ phó ngày nay ). Ông tính lãng mạn,ham đánh bạc, rượu chè "của lạ" (thay vợ đến 4 lần).Hồi trẻ thơ ông diễm lệ bóng bẩy, đến cuối đời phong thái cốt cách mạnh mẽ rắn rỏi, sáng tạo tân kỳ có thể theo kịp Giang Yêm, Bão Chiếu... Ông khổ vì ngâm vịnh đến trở bệnh xanh xao hốc hác cả người (hết mình vì thơ  là vậy); Bạn ông nói đùa "không phải Bác bệnh đến như vậy, bởi khổ vì  ngâm thơ nên gầy thôi" !
Lầu Hoàng Hạc xây dựng từ thời Tam Quốc, vốn là "tửu quán" - đó là 1 trong tam đại danh lâu của xứ "Giang Nam hảo "nơi hội tụ cuả các văn nhân tài tử đến đây uống rượu và làm thơ...Theo sách "Cổ đại thi tứ cố sự" thì Thôi Hiệu đề thơ ở Lầu Hac Vàng ở tư thế: thi sỹ nhìn Hán Dương ở bờ sông bên kia, "Tình Xuyên Các" bị che lấp trong ráng chiều ta, bãi Anh Vũ giữa sông phủ một lớp cỏ dày...
Thầy giáo của NK đã từng giảng giải: cái diệu của Thôi Hiệu ở chỗ chỉ một câu tả "Lầu", còn 3 câu kia đều tả "người xưa"... trong đó câu 1 là tả "người xưa", câu 3 là nghĩ "người xưa", câu 4 là ngóng "người xưa", cứ như phớt lờ không nhắc gì đến "lầu".Câu 5-8 tiền giải là tả "người xưa", hậu giải tả "người nay", tuyệt nhiên không tả đến "lầu"... Thi sỹ chỉ nhất ý tựa cao trông xa, riêng thổ lộ hoài bão của mình.Rồi "hương quan hà xứ thị" (ở nơi này) với cây thì "lịch lịch" (in rõ), bãi thì "thê thê" (tươi tốt), riêng có mắt thì ngóng "hương quan" là không biết "hà xứ" (nơi nào). Rồi với hai chữ "nhật mộ" (chập tối lúc chim về tổ, gà vào chuồng) đặt ngang lên câu thơ làm cho 24 con chữ trong 4 câu tiền giải cùng nhảy múa tạo nên tuyệt tác để "đời sau đừng ai làm thơ về Hoàng Hạc Lâu nữa mà chuốc lấy hổ thẹn."
Vâng, đúng là thế: cái diệu của Thôi Hiệu là trong 8 câu, chỉ có một câu nói đến Lầu (câu 2).Câu 3 "Hoàng Hạc nhất khứ bất phục phản" là câu rất đặc biệt: dùng liên tiếp 6 chữ "trắc" trong câu thơ 7 chữ, bất chấp luật bằng trắc, với bút pháp ấy khiến câu thơ mang sức mạnh (nội lực) khác thường.Để làm gì? - để nhấn mạnh cái ý "tiền bất kiến cổ nhân"
- "nhất khứ" là một đi - "bất phục phản" là không trở lại... câu này nói lên cái lẽ vô thường của  mọi người, mọi việc.
Câu 3 đối câu 4: ý là thôi, đừng hoài niệm mãi nữa
Hoàng Hạc Lâu với cái ý tại ngôn ngoại đó là cái độc đáo của Đường thi mà nó là tiêu biểu số 1; và chính cũng vì lẽ đó mà xưa nay các nhà thơ ta đã bị Hoàng Hạc Lâu "thôi miên" ám ảnh, hết thế hệ này đến thế hệ khác lao tâm khổ tứ "dịch" nó, đến nay đã có ngót 100 bản dịch. Theo thiển ý của NK thì có 3 bản dịch đáng lưu ý là:
 
1. Bản dịch của Tùng Vân Nguyễn Đôn Phục
(Nam Phong tạp chí - năm 1923)

Người tiên xưa cưỡi Hạc vàng cút,
Ở đây chi những lầu hạc trơ.
Hạc Vàng đã cút chẳng về nữa,
Mây trắng nghìn năm còn phất phơ.
Sông bạc Hán Dương cây xát xát,
Cỏ lên Anh Vũ bãi xa xa.
Ngày chiều làng cũ đâu chăng tá?
Mây nước trên sông khách thẫn thờ.


Đây là bản dịch khá chối tai (rất trúc trắc) nhưng khá công phu, khá già tay (túc Nho) ; công phu ở chỗ : theo sát nhạc điệu của nguyên tác, sát cả ở những chỗ sai niêm, thất luật.

2. Bản dịch của Tản Đà:

(In ở tạp chí Ngày Nay số 80 , ngày 10-10-1937)
 
Hạc vàng ai cưỡi đi đâu ?
Mà đây Hoàng Hạc riêng lầu còn trơ
Hạc vàng đi mất từ xưa
Ngàn năm mây trắng bây giờ còn bay
Hán Dương sông tạnh, cây bày
Bãi xa Anh Vũ xanh đầy cỏ non
Quê hương khuất bóng hoàng hôn
Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai.
Đây là một bản dịch tài hoa, bay bướm nhẹ nhàng, văn chương trầm bổng theo cung điệu lục bát (đượm hồn dân tộc). Ở nguyên tác đó là cái không khí mang mang day dứt nỗi bơ vơ hiu quạnh của thân phận con người, lạc lõng giữa trần gian trong một chiều nắng tắt.Mà thiên đường thì đã mù mịt lối về.Cái không khí Hàn Lâm ấy đã bị Tản Đà thuần hóa trở nên nhu mì, mềm mại, nhẹ nhàng, trôi chảy trong dòng ca dao (lục bát). Cái HAY của Tản Đà là ở chỗ ấy, nó vào hồn người Việt là vì lẽ ấy, nhưng đó cũng là cái hụt hẫng khi dịch như thế?

3. Bản dịch của Vũ Hoàng Chương

Xưa Hạc Vàng bay vút bóng người,
Nay lầu Hoàng Hạc chút thơm rơi.
Vàng tung cánh hạc đi đi mãi,
Trắng một màu mây vạn vạn đời.
Cây bến Hán Dương còn nắng chiếu,
Cỏ bờ Anh Vũ chẳng ai chơi.
Gần xa, chiều xuống, đâu quê quán?
Đừng giục cơn sầu nữa sóng ơi!


Như ta đã biết : Thôi Hiệu  (con người phát ốm vì làm thơ đã vận dụng hết 10 phần công lực phá vỡ luật thơ thất ngôn, sử dụng 6 thanh "trắc" liên tiếp mới nói được:

Hoàng Hạc nhất khứ bất phục phản
Bạch Vân thiên tải không du du


Để đến độ hùng tâm dũng khí như Đại thi hào Lý Bạch vẫn phải gác bút (đạo bất đắc) chịu thua, cúi đầu ra đi...
Còn thi sỹ Vũ Hoàng Chương sau 1000 năm thì ung dung rút kiếm, giữa trời thơ, phóng con mắt nhìn đời dõi theo cánh hạc đã mù khơi bay mất mà thong thả dụ dắt nó quay về trong cung bậc thất ngôn niêm luật (nói theo Tô Thẩm Huy). Đó là hai câu thực của Vũ bay bổng giữa trời ảo diệu:

Vàng tung cánh hạc đi đi mãi
Trắng một màu mây vạn vạn đời


Một màu vàng lóe lên giữa trời vụt tắt, một màu vàng tung lên rồi vĩnh viễn ra đi, không bao giờ trở lại, nhưng mãi mãi lấp lánh trong tâm tưởng và thâm phận con người (kiếp nhân sinh). Đọc đến câu cuối "đừng giục cơn sầu nữa sóng ơi thì là cả một trời Đường thi bỗng lay động". Giá Thôi Hiệu phục sinh đọc bản dịch của Vũ thì chắc cũng bái phục: "Sóng ơi, sầu đã chín, xin người thôi giục,đó là sóng của bể dâu, hưng phế."
Ta thử đọc lại hai câu theo âm Hán/ Việt:
- Yên ba giang thượng sử nhân sầu
- Đừng giục cơn sầu nữa sóng ơi!


Thì sẽ thấy nội công thâm hậu của Vũ:

- Vàng tung cánh hạc đi đi mãi

Nếu đưa chữ "hạc" lên đầu câu:

- Hạc vàng tung cánh đi đi mãi

Thì cả một trời thơ lung linh tối sầm lại? Thi tài là thế - và có lẽ sau Vũ Hoàng Chương không ai nên dịch lại (Hoàng Hạc Lâu) nữa?

Góc thành nam Hà Nội ngày 27-3-2010
Nguyễn Khôi - Cẩn bút
(Từ Email của nhà văn Nguyễn Khôi gửi Blog người hiếu cổ )

Cảm xúc khi thăm nơi Trương Kế sáng tác "Phong Kiều dạ bạc"

Bến Phong Kiều
Bến Cô Tô (ảnh: wikipedia)
Blog người hiếu cổ - Chắc hẳn không ít trong số chúng ta đều đã từng được học hoặc được nghe bài thơ "Phong Kiều dạ bạc" (Đêm đậu thuyền ở bền Phong Kiều) của nhà thơ Trương Kế đời Đường. Những hình ảnh tiếng chuông chùa Hàn Sơn với bóng thuyền đậu trên bến Cô Tô là những hình ảnh để lại rất nhiều cảm xúc cho người đọc. Bản thân tôi từ khi còn học phổ thông, biết đến bài thơ này qua sách giáo khoa, đã mơ ước được đặt chân đến vùng đất mà Trương Kế đã đề thơ để hòa cùng thiên nhiên nơi đó, tuy nhiên, điều đó đến nay vẫn chỉ là ước mơ mà thôi...
Sáng nay mở email ra, không hiểu cơ duyên nào mà dịch giả - nhà nghiên cứu - nhà văn Nguyễn Khôi lại gửi liền 3 email cho tôi bao gồm một số tác phẩm tâm đắc cộng với chùm thơ "Thăm chùa Hàn Sơn" cùng mấy dòng tản mạn. Liền reply để xin phép đăng tải trên blog, và nhận được sự đồng tình. Xin đưa lại bài tản mạn "Thăm chùa Hàn Sơn" và chùm thơ ông viết tặng nhà thơ Vũ Quang Tần như sau:

THĂM HÀN SƠN TỰ
Tô Châu - Trung Quốc 19- 6-2006
Nguyễn Khôi
"Chưa đến Hàn Sơn Tự
Biết đâu phố Phong Kiều?"
--------
Đến Tô Châu ai cũng háo hức đi thăm Hàn Sơn Tự.Đó là ngôi chùa do Thiền sư Hy Thiên, pháp danh là Hàn Sơn Tử Giả xây vào khoảng năm Thiên Giám đời Lương, thuộc Nam Triều (Thế Kỷ Vl),tại trấn Phong Kiều bên ngoài Xương môn,phía tây thành Cô Tô (Nay là Tô Châu).Thiền Sư lấy tên hiệu(pháp danh) của mình đặt tên cho chùa"Hàn Sơn Tự" để làm kỷ niệm.Từ đây thiền sư lại vân du đi chơi núi Lạnh(Hàn Sơn) đó là núi Thiên Thai(nơi sinh ra dòng tu Thiên Thai Tông) kết bạn với Thiền sư Thập Đắc Phong Can.Bức hoành phi với bốn chữ đại tự"Hàn Sơn Thập Đắc" có nghĩa là chùa Hàn Sơn lấy tên hai người là Hàn Sơn và Thập Đắc mà lưu danh.

Trải qua nhiều biến động của các triều đại,chùa Hàn Sơn bị binh lửa đời Thanh đốt cháy(năm 1860),đến năm Quang Tự thứ 3(1904) chùa được xây dựng lại với quy mô dáng dấp như còn thấy ngày nay,gồm có : Đại điện,Tàng kinh lâu(lầu chứa kinh),Chung lâu(lầu chuông),Phong giang lâu(lầu ngắm rừng phong bên sông),bi lang(hành lang đặt bia).Điều thú vị là trong sân chùa có đặt tượng thi sĩ Trương Kế,mà theo tục lệ:các tao nhân mặc khách tứ xứ đến viếng chùa ai nấy đều tới vuốt nhẹ vào bàn tay pho tượng với ước nguyện để được tăng thêm nội lực,được chia sẻ một chút hồn thơ...đồng thời trong chùa còn giữ nhiều cổ vật quý giá,trong đó có tấm bia khắc bài thơ nổi tiếng Phong Kiều Dạ Bạc của Trương Kế đời Đường(khoảng trước năm 754).


"Nguyệt lạc ô đề sương mãn thiên

Giang phong ngư hoả đối sầu miên
Cô Tô thành ngoại Hàn Sơn Tự
Dạ bán chung thanh đáo khách thuyền."

Dịch thơ:
"Trăng tà,tiếng qụa kêu sương
Lửa chài,cây bến sầu vương giấc hồ
Thuyền ai đậu bến Cô Tô
Nửa đêm nghe tiếng chuông chùa Hàn Sơn."
(Nguyễn Hàm Ninh - trước đây cho là của Tản Đà dịch)

Dịch "Thuyền ai đậu bến Cô Tô" là dịch thoát ý,dịch đúng phải là:
"Trăng lặn,sương mờ,nghe tiếng quạ
Lửa chài cây ánh,giấc chưa yên
Cô Tô bên mái Hàn Sơn Tự
Đêm muộn chuông ngân vẳng đến thuyền."
(Bùi Khánh Đản)

"Quạ kêu,trăng xế,sương tuôn
Lửa chài cây bến,giấc buồn ngó nhau
Chùa Hàn Sơn mé Tô Châu
Nửa đêm bỗng tiếng chuông đâu đến thuyền."
(Hoài Anh)

Sự ra đời của bài thơ: theo giai thoại thì Trương Kế người Tương Châu một lần đi thi trượt (tiến sỹ), theo dòng Vận Hà bắc nam,đêm đỗ thuyền ở bến Phong Kiều(bến Cây Phong)bên chùa Hàn Sơn(Hàn Sơn đây là tên chùa,chứ không có núi Lạnh như một số dịch giả suy diễn qua văn bản thơ...vào thời bấy giờ(đời Đường)người ta có"phân dạ Chung"(chuông chia đêm)đánh vào lúc nửa đêm...Thi Sỹ buồn (vì thi trượt)nằm trong thuyền chập chờn bên ngọn lửa của ngư ông(lão đánh cá) giữa trời sương,trăng lặn lảnh tiếng quạ kêu cùng tiếng chuông chùa Hàn Sơn nửa đêm vọng tới...tức cảnh sinh tình,Trương Kế hạ bút hồn cất cánh thơ để lại một Phong Kiều Dạ Bạc lưu truyền hậu thế.Cũng nhờ có thơ Trương Kế mà Hàn Sơn Tự trở nên nổi tiếng hấp dẫn khách năm châu bốn biển được các thi nhân viếng thăm đề vịnh.Xin dẫn một vài ví dụ với đôi câu thơ hay: . Ô đề nguyệt lạc kiều biên tự (Quạ kêu trăng xế chùa bên cầu) Tần Thục - đời Tống . Lãnh tận Hàn Sơn cổ tự phong (Lạnh đến cả cây phong bên chùa cổ Hàn Sơn) Khang Hữu Vi - đời Thanh Còn một điều cực kỳ thú vị nữa là:theo Giáo sư Kiều Thu Hoạch thì thơ Trương Kế không chỉ ảnh hưởng đến thơ Việt (kể cả nhạc Văn Cao) mà còn ảnh hưởng đến cả đời sống văn hoá - ngôn ngữ của người Việt.Số là cái bát canh mà ở Bắc Việt hiện nay vẫn gọi là"bát ô tô", Nam Việt gọi là "tô" thì Đại Nam Quốc Âm tự vị (Sai Gon - 1895) của Paulus Của giải thích là"bát thành Cô Tô làm ra,bát lớn mà khéo".Tuy nhiên ý kiến của Paulus Của chỉ đúng một nửa.Theo ý kiến của giới ngôn ngữ học thì đó chỉ là cái bát có vẽ cảnh Cô Tô theo ý thơ "Cô Tô thành ngoại Hàn Sơn Tự". Người Bắc Việt nhân đó gọi là bát Cô Tô , rồi gọi chệch là "bát ô tô", còn dân Nam Việt gọi tắt là "bát tô", rồi "tô". Xem thế,đủ thấy sức lan toả về mặt văn hóa của một kiệt tác văn học quả là sâu rộng lắm thay!


Thơ THĂM HÀN SƠN TỰ
(Tặng: Nhà thơ Vũ Quang Tần)
1- Chùa cổ, thơ đề, vẳng tiếng chuông
Ngàn năm ngưỡng vọng đến Hàn Sơn
"Cô Tô thành ngoại" in bóng Nguyệt
Để khách đa tình phải vấn vương.
                     
2- Nắng gắt, người chen, ánh chiều tà
Bờ Phong xòa bóng, Liễu thướt tha
Chuông động hồn xưa Hàn Sơn Tự
Lên tháp vời trông sóng Vận Hà.
                     
3-Chiều sương dạo phố Phong Kiều
Tựa " Đình Chiết Liễu" gió reo đôi bờ
Thuyền ai về bến Cô Tô
Lửng lơ nghe tiếng chuông chùa Hàn Sơn.

Lời tựa bài "Quy khứ lai hề" của Đào Tiềm

Đào Tiềm
Chân dung Đào Tiềm
Blog người hiếu cổ - Lâm Ngữ Đường từng nhận xét về bài "Quy khứ lai hề từ" 歸去來辭 của Đào Tiềm rằng:
"Không hề làm một vị quan lớn, không có quyền uy, không có sự nghiệp nào cả trừ một tập thơ mỏng và vài ba thiên tản văn, mà Đào Uyên Minh chiếu sáng cổ kim như một ngọn đuốc lớn, và được các văn nhân thi sĩ coi là tiêu biểu cho một nhân cách cao quí nhất. Đời ông vô tư, tự do, khiêm tốn, giản phác...Ông có thiên tài cảm được và tả được một lối sống điều hòa, thiên tài đó tới cái mức hoàn toàn tự nhiên, bình dị mà từ xưa chưa ai đạt được. Bài phú “Qui khứ lai từ”, viết vào tháng 11 năm 405, khi ông quyết định từ chức tri huyện, biểu hiện được tình cảm và thiên tài của ông... Có người cho rằng ông chủ trương “lánh đời”, nhưng không phải vậy. Ông lánh chính trị chứ không lánh đời. Ông vui vẻ trở về cảnh điền viên giữa gia đình. Như vậy kết cục là một sự hòa hợp với thiên nhiên, với đời sống, chứ đâu phải là một sự phản kháng"


Nhân một hôm thư thái tinh thần, tôi có ngồi viết lại phần lời tựa bài "Quy khứ lai hề từ", thấy có chút tâm đắc nên xin chia sẻ cùng bạn đọc cùng xem chữ, cùng hiểu hơn về nội dung:
Nội dung bài tựa như sau:
"Ta nhà nghèo, việc cấy trồng không đủ cung ứng cuộc sống. Con cái đầy nhà, trong chum thì thiếu gạo, cuộc sống chưa biết giải quyết thế nào. Bà con, bạn bè đến khuyên ta ra làm quan. Không có gì cản trở, ta cũng có ý muốn tìm ít tước lộc, nhưng chưa tìm ra. Vừa lúc có việc quan các nơi, ta phụng mệnh quan ra kinh đô và được các chư hầu yêu mến, Thúc Phục cũng thương ta nghèo nên tiến cử ta làm quan lệnh. Bây giờ giặc giã chưa yên, trong lòng ta vẫn cứ sợ phải đi xa; huyện Bành Trạch cách nhà độ hơn trăm dặm, số thu công điền cũng đủ cho cuộc sống. Vì thế ta xin được đến làm quan ở đấy. Không lâu sau, ta lại có ý nhớ nhà, muốn về nhà. Tại sao thế? Bản tính tự nhiên của ta là như thế, nên không thể miễn cưỡng, giả vờ được. Sự đói lạnh tuy là quan trọng thực đấy, nhưng làm ngược lại bản tính mình còn đau khổ nhiều hơn. Trước giờ ta từng theo làm việc với người khác cũng chỉ vì miếng ăn mà phải chịu cảnh tôi mọi. Thế rồi ta cảm thấy thất vọng, bị khích động tủi thẹn cho chí bình sinh. Ta vẫn định làm quan chừng hơn một năm rồi hãy len lén thu xếp áo quần mà về quê. Nhưng chỉ được ít lâu, nghe tin em gái ta là Trình thị mất ở Vũ Xương; vì tình ruột thịt, khiến ta phải mau mau chạy tang và tự động xin từ chức. Từ trọng thu đến mùa đông, ta làm quan được hơn 80 ngày. Theo việc, thuận lòng, ta viết bài “Quy khứ lai hề”.
Tháng 11 năm Ất Tị"
Bài tựa Quy khứ lai hề
Bài tựa "Quy khứ lai hề" - toàn cục (Click để phóng to ảnh)
Quy khứ lai hề
Cục bộ 1
Quy khứ lai hề
Cục bộ 2
Quy khứ lai hề
Cục bộ 3
Quy khứ lai hề
Cục bộ 4

“Canh gà Thọ Xương” có thực sự là món súp gà hay không?

Blog người hiếu cổ - Thời gian gần đây, nổi cộm trên các phương tiện thông tin đại chúng là chuyện cô giáo dạy cho các em học sinh câu ca dao “Gió đưa cành trúc la đà/Tiếng chuông Trấn Vũ canh gà Thọ Xương” rằng: “Canh gà Thọ Xương là món ăn nổi tiếng, đặc sản của làng Thọ Xương”. Ngay khi tin này được đăng thì dư luận đã có những phản hồi vô cùng quyết liệt, rằng cô giáo dạy sai. Ngay sau đó tôi lại đọc được thông tin rằng cô giáo đó đã bị đánh nhập viện!!!

Tôi trên những hiểu biết cá nhân thì thấy quả thực cô giáo này không đáng phải chịu búa rìu dư luận lớn đến vậy. Vì sao? Vì cô ấy quả thực đã sai, nhưng cái sai đó lỗi không hoàn toàn ở cô ấy…
*
*        *
Dưới đây, tôi xin viết đôi điều để bạn đọc có cái nhìn đúng đắn hơn về bài “ca dao” có cụm từ “canh gà Thọ Xương” gây tranh cãi:
Bài “ca dao” gây tranh cãi trên thường được biết đến với nội dung:

“Gió đưa cành trúc la đà
Tiếng chuông Trấn Vũ canh gà Thọ Xương
Mịt mù khói tỏa ngàn sương
Nhịp chày Yên Thái mặt gương Tây Hồ”(A)
Hoàn toàn ta thấy đây là một bài tả cảnh Hà Nội với các địa danh: chùa Trấn Vũ, ngõ/huyện Thọ Xương, làng Yên Thái (An Thái), và Tây Hồ. Tuy nhiên ngay về vấn đề văn bản của bài này đã là vấn đề không rõ ràng rồi, các sách giáo khoa cũng như các sách lịch sử văn học tôi cũng chưa thấy ghi rõ. Vì vậy, việc xác định văn bản học của bài thơ này chủ yếu dựa vào những ghi chép của các thế hệ đi trước. Trong cuốn sách “Thăng Long – Đông Đô – Hà Nội” của Hoàng Đạo Thúy[1] có ghi chép khung cảnh Hà Nội:
"Những buổi sớm tinh sương mùa đông, khách dạn sương đi trên đường Thanh Niên không thấy trời, không nhìn rõ mặt nước, trên đầu cành lá rũ nặng giọt, bên trái lung linh ánh trăng úa hạ huyền; lúc ấy lòng lâng lâng, không ngâm mà cũng như ngâm câu thơ cổ: Phất phơ ngọn trúc trăng tà... Gà xóm bên hồ đã gáy, chuông hồi đã đổ dồn, đồng bào Bưởi đã dậy giã dó từ lâu. Mặt trời mới hé trên đê Yên Phụ mở ra một tấm gương phẳng lặng rắc phấn hồng
Qua mô tả của Hoàng Đạo Thúy, ta dễ dàng thấy được nội dung trùng khớp với bài thơ “Hà Nội tức cảnh” của Dương Khuê (1839 - 1902) với nội dung:
“Phất phơ ngọn trúc trăng tà
Tiếng chuông Trấn Vũ, canh gà Thọ Xương
Mịt mù khói tỏa ngàn sương
Nhịp chày An Thái, mảnh gương Tây Hồ”[2] (B)
Vì vậy, “canh gà” ở đây không nói đến món canh/súp gà. Tôi cũng nghe một số biện giải của nhiều người là nghe kể ngày xưa ở Thọ Xương cũng có món canh gà nổi tiếng, nhưng đa phần đều là tư biện và không có căn cứ.
Tạm gác chi tiết “canh gà”, ta đi vào tìm hiểu một chút diễn biến văn bản của bài thơ này.
Sách Tâm trạng Dương Khuê và Dương Lâm[3], Dương Thiệu Tống là cháu của Dương Khuê có ghi dòng nhận xét về câu lục mở đầu: "Có người đã sửa đổi câu thơ này là Gió đưa cành trúc la đà, nhưng có lẽ là sai vì làm mất đi ý nghĩa ẩn dụ của toàn câu mà chỉ có ý nghĩa tả cảnh mà thôi".
Vấn đề nảy sinh ở đây là: Ai đã sửa câu lục trong bài thơ này thành “Gió đưa cành trúc la đà”?
Tôi liên tưởng tới một bài thơ khác tả cảnh Huế khá giống bài thơ của Dương Khuê là:


“Gió đưa cành trúc la đà,
Tiếng chuông Thiên Mụ, canh gà Thọ Xương.
Thuyền về xuôi mái sông Hương,
Biết đâu tâm sự đôi đường đắng cay” (C)
Bài thơ này cũng đã được phổ thành nhạc trong bài hát “Thương về cố đô” của nhạc sĩ Châu Kỳ, khi đó bài thơ này đã được công nhận như một bài ca dao trong kho tàng Văn học dân gian Bình Trị Thiên (1987), nhạc sĩ Châu Kỳ chỉ dùng nó như một chất liệu sáng tác mà thôi. Một hồi tìm kiếm, tôi mới thấy hai câu thơ đầu xuất hiện trong cuốn hồi ký “Mười ngày ở Huế”[4], nói về quãng thời gian ở Huế của học giả Phạm Quỳnh. Trong đó có viết một đoạn tả cảnh Huế như sau:
“Gió đưa cành trúc la đà
Tiếng chuông Thiên Mụ canh gà Thọ Xương
Cả cái hồn thơ của xứ Huế như chan chứa trong hai câu ca ấy. Chùa Thiên Mụ là một chốn danh lam, có cái tháp bẩy từng, ở ngay trên bờ sông Hương, làng Thọ Xương thì ở bờ bên kia. Đêm khuya nghe tiếng chuông chùa với tiếng gà gáy xa đưa văng vẳng ở giữa khoảng giời nước long lanh mà cảm đặt thành câu ca cho con trẻ hát, ấy mới rõ cái tính tình của người xứ Huế.” (Phần IV)
Như vậy là học giả Phạm Quỳnh đã dùng ý tứ của thơ Dương Khuê để viết lại cho hợp với cảnh và địa danh ở Huế, có chùa Thiên Mụ và có làng chài Thọ Xương (còn có tên là Thọ Khương, Thọ Cương, Long Thọ). Chúng ta có thể đưa ra phán đoán:
-         Hoặc là Phạm Quỳnh viết dựa trên thơ Dương Khuê
-         Hoặc là sử dụng chất liệu văn hóa dân gian bản địa
Nhưng dù là trường hợp nào thì văn bản (C) cũng là một chi tiết quý giá.
Vì thế, bản (A) có thể được phán đoán bằng sự “lai” giữa hai bản (B) (C).
Cũng qua các chi tiết trên, mảy may không hề thấy chỗ nào đề cập đến món canh (súp) gà Thọ Xương. Hơn nữa, chúng ta cần hiểu logic bài thơ tả cảnh, đang có gió, có cành trúc, có tiếng chuông, có nhịp chày giã giấy, có mặt nước hồ long lanh, dẫu có thêm món canh (súp) gà vào cũng thật là vô duyên và không hợp lý.



[1] Cuốn đầu in bởi Hội văn nghệ Hà Nội năm 1969, tái bản nhân dịp kỷ niệm 1000 năm Thăng Long Hà Nội năm 2010
[2] Trích lại tài liệu theo bài của Vô Ưu trên http://www.baomoi.com
Dẫn theo Trần Trung Viên trong Văn đàn bảo giám, cuốn 3, NXB Nam Ký, Hà Nội, 1926; Mặc Lâm tái bản, Sài Gòn, 1969, trang 159; tài liệu do nhà phê bình Đặng Tiến cung cấp. Trong Thơ văn Hà Nội do Trần Huy Liệu chủ biên, cũng viết như vậy.
[3] Dương Thiệu Tống, Tâm trạng của Dương Khuê và Dương Lâm, Nxb. Khoa học Xã hội, HN, 2005.
[4] Quý vị độc giả có thể đọc toàn văn hồi ký “Mười ngày ở Huế” tại Blog của Phạm Quỳnh ở địa chỉ:
Hoặc: Phạm Quỳnh, Mười ngày ở Huế, Nxb. Văn học, H.2001

Cuộc ly biệt đầy cảm xúc giữa Lý Bạch và Mạnh Hạo Nhiên tại Hoàng Hạc lâu

黃鶴樓送孟浩然之廣陵Blog người hiếu cổ - Hoàng Hạc lâu (黄鹤楼) là một ngôi tháp lịch sử, được cất trên vực đá Hoàng Hạc của núi Xà Sơn bên bờ sông Dương Tử, thuộc thành phố Vũ Hán tỉnh Hồ Bắc, Trung Quốc. Hoàng Hạc Lâu được xem là một trong bốn tứ đại danh tháp của Trung Quốc và là ngôi lầu nổi tiếng được các thi nhân ca tụng. Tuy nhiên, thơ tại lầu Hoàng Hạc nói chung đều mang không khí đượm buồn. Chúng ta từng biết đến bài thơ “Hoàng Hạc lâu” của  nhà thơ Thôi Hiệu đời Đường, nói rõ về tâm trạng buồn man mác tại lầu hạc, khi mà “hạc vàng bay mất từ xưa/mà nay Hoàng Hạc riêng lầu còn trơ” (Tản Đà dịch) rồi dẫn ra những mạch cảm xúc của chính tác giả. Bài thơ “Hoàng Hạc lâu tống Mạnh Hạo Nhiên chi Quảng Lăng” 黄鹤楼送孟浩然之广陵 (Tiễn Mạnh Hạo Nhiên đi Quảng Lăng tại lầu Hoàng Hạc) của Lý Bạch cũng mang tâm trạng chung như vậy, buồn man mác, nỗi buồn của sự chia ly, nhưng giá trị hơn cả, đó chính là một bức họa tuyệt vời mà không bút nào có thể vẽ nên được.
Cũng có rất nhiều họa gia công phu tìm hiểu ý tứ của Lý Bạch để vẽ nên những bức họa hết sức tuyệt vời về khung cảnh chia ly ở một không gian hùng vĩ như vậy. Xem ảnh bên, Lầu Hoàng Hạc đứng kiêu hãnh trên vách núi, hướng ra Trường Giang hùng vĩ, cùng với những cánh buồm nhỏ xíu như sắp bị dòng sông nuốt chửng. Khung cảnh hùng vĩ mà mờ ảo này toát lên sự hùng vĩ của thiên nhiên, đè nặng lên cánh buồm nhỏ nhoi của con người, không khí chia ly lại càng được lột tả rõ nét.

Dưới đây tôi xin phân tích đôi nét về bài thơ :

故人西辞黄鹤楼,
Cố nhân tây từ Hoàng Hạc lâu
烟花三月下扬州。
Yên hoa tam nguyệt há Dương Châu
孤帆远影碧空尽,
Cô phàm viễn ảnh bích không tận
唯见长江天际流。
Duy kiến Trường Giang thiên tế lưu.

Dịch nghĩa:
Bạn tri kỷ đã từ biệt ta từ lầu Hoàng Hạc ở phía Tây (để đi về Đông)
Tháng ba, tháng của hoa liễu rủ như những bông hoa khói, diễm lệ là thế, cũng là lúc ta phải xuống Dương Châu.
Cánh buồm cô liêu đã đi xa tít tắp, màu xanh của núi non lại vô tận.
(Lúc này thuyền đã khuất bóng), ta chỉ còn thấy dòng Trường Giang chảy mãi đén tận chân trời.
***
Bình sinh, Lý Bạch là người rất thích ngao du thiên hạ, ông đã đi hết khắp trong ngoài cõi Trung Nguyên. Ông từng viết một câu thơ nói lên quan điểm của mình rằng:
Nhân sinh quý ở chỗ biết nhau
Cần gì phải nghĩ đến kim với tiền
(Tặng hữu nhân – bài thứ 2/3)
Câu thơ thể hiện rõ tinh thần của ông về đạo cư xử có trước có sau và thành tín giữa bạn bè, đồng thời nói lên tình cảm rất nồng hậu mà mãnh liệt của nhà thơ với bạn hữu. Trong số các bạn bè của Lý Bạch, Mạnh Hạo Nhiên là nhân vật xuất hiện rất nhiều trong thơ ông. Lý Bạch yêu mến Mạnh Hạo Nhiên ở nhiều mặt, thơ văn, tính cách, sự nghiệp… Vì thế mà ông đã phải thốt lên rằng “Ta yêu mến Mạnh phu tử”.
Bài thơ “Hoàng Hạc lâu tống Mạnh Hạo Nhiên chi Quảng Lăng” được Lý Bạch viết trong bối cảnh năm 729 (tức năm thứ 13 niên hiệu Khai Nguyên thời Đường Huyền Tông), Lý Bạch đi thuyền từ Tứ Xuyên đến phía Đông Trường Giang, trên đường đã đi qua rất nhiều nơi. Đến mùa xuân năm 726, Lý Bạch đi đến Quảng Lăng và ở đó vài tháng. Mùa đông năm ấy, ông rời Quảng Lăng, du ngoạn ở phuowng Bắc. Sau đó đến Tương Dương, nghe nói Mạnh Hạo Nhiên ẩn cư ở núi Lộc Mộc ở phía Đông Nam thành thì liền đến để thăm hỏi. Mạnh Hạo Nhiên đọc thơ Lý Bạch, hết lời khen ngợi, hai người nhanh chóng trở thành bạn hữu tri kỷ. Mạnh Hạo Nhiên rất nhiệt tình khoản đãi Lý bạch, và giữ ông ở lại đó hơn 10 ngày. Đến tháng 3 năm 730, Lý Bạch được biết mạnh Hạo Nhiên muốn đi Quảng Lăng, liền nhờ người đưa tin, hẹn gặp Mạnh Hạo Nhiên ở Giang Hạ (nay là thành phố Vũ Hán của Trung Quốc). Rồi họ gặp nhau ở lầu Hoàng Hạc tại Giang Hạ. Vài hôm sau, Mạnh Hạo Nhiên đi thuyền xuống phía Đông, Lý Bạch đích thân tiễn đến bờ sông. Thuyền đi, Lý Bạch đứng bên bờ sông ngóng thuyền Mạnh Hạo Nhiên khuất bóng, cảm xúc dâng trào mãnh liệt, liền viết bài thơ “Hoàng Hạc lâu tống Mạnh Hạo Nhiên chi Quảng Lăng”. Do đó, chúng ta có thể thấy được tình bản rất đáng quý của hai người. Bài thơ này là tác phẩm rất tiêu biểu của Lý Bạch, đã trở thành bài thơ quen thuộc, cửa miệng của rất nhiều người.

Bài thơ “Ô Y hạng” của Lưu Vũ Tích và lịch sử “ngõ áo đen”

Ô Y hạng
Blog người hiếu cổ - “Ô y hạng” (ngõ áo đen) nằm ở miếu Phu Tử tại Nam Kinh, Trung Quốc, phía nam cầu Văn Đức có một ngõ nhỏ rất yên tĩnh, trên bức tường đầu ngõ viết rõ 3 chữ “烏衣巷”. Lịch sử của Ô Y hạng rất lâu đời, là nơi đóng quân cấm vệ nước Đông Ngô thời Tam Quốc. Bởi vì đương thời, cấm vệ quân mặc quân phục màu đen, nên khu này được gọi là “Ngõ áo đen”. Đến thời Đông Tấn, Ô y hạng trở thành nơi cư trú của các nhà đạt quan quý tộc mà đại biểu là hai nhà họ Tạ (tể tướng Tạ An謝安) và họ Vương (tể tướng Vương Đạo王導). Lại có truyền thuyết kể rằng con cháu họ Vương, họ Tạ rất thích mặc áo đen, nên người ta gọi con cháu họ Vương, Tạ là “Ô y lang”, và đất này được gọi là “Ô y hạng”.
Vương Đạo, phò tá sáng lập ra vương triều Đông Tấn; Tạ An chỉ huy cuộc chiến ở sông Phì, lấy ít địch nhiều, đánh bại đại quân trăm vạn người của nhà Tần, trở thành danh tướng một thời. Con cháu họ Vương, họ Tạ cũng rất nhiều nhân tài kiệt xuất, trong đó họ Vương có các nhà đại thư pháp nổi tiếng như Vương Hi Chi王羲之, Vương Hiến Chi王獻之, Vương Tuân王洵; nhà họ Tạ có Tạ Linh Vận là tổ của thi phái sơn thủy của Trung Quốc, cùng với Tạ Huệ Liên謝惠連 và Tạ Diểu謝眺trở thành “tam Tạ” trong lịch sử văn học Trung Quốc.
Đến thời Đường, Ô y hạng trở thành một gò hoang phế, nhà thơ Lưu Vũ Tích đã viết bài thơ “Ô y hạng” để tỏ sự cảm thán với phế tích này, miêu tả rõ về sự biến hóa biển dâu của Ô y hạng từ thời Lục triều đến thời Trung Đường. Nội dung bài thơ như sau:
Chữ Hán:
朱雀橋邊野草花,
烏衣巷口夕陽斜,
舊時王謝堂前燕,
飛入尋常百姓家。
Phiên âm:
Chu tước kiều biên dã thảo hoa,
Ô y hạng khẩu tịch dương tà.
Cựu thời Vương Tạ đường tiền yến,
Phi nhập tầm thường bách tính gia.
Dịch nghĩa:
Bên cầu Chu Tước, cỏ hoa mọc tốt tươi
Đầu ngõ Ô y, bóng chiều dương đã xế tà
Khi xưa, trước nhà họ Vương, họ Tạ đầy chim yến bay lượn
(Nhưng nay), yến bay vào nhà những người dân bình thường.

Thi từ trong "Tứ đại danh trứ" của Trung Quốc

Nhìn lên bầu trời văn học, các tác phẩm văn học kinh điển có thể gọi là sao sáng đầy trời. Cổ nhân từng nói "Văn là để tải đạo", do đó, tất cả những tác phẩm văn học kinh điển đều không thể tách rời một chữ "đạo", cụ thể ở chỗ con người ta biết đường tu tập để sau đó đạt được dĩnh ngộ trong việc tu thân, bao hàm các phạm trù văn hóa như: Đạo đức, thiên mệnh... Một tác phẩm văn học hay đều phải có bố cục kết cấu nghiêm cẩn, hấp dẫn người đọc và có những ý nghĩa sâu xa từ đầu đến cuối. Những bài thơ, từ mở đầu một tác phẩm văn học kinh điển thường mang tính chủ đề cho tác phẩm, khiến cho người đọc hiểu ngay ý mà tác giả muốn truyền đạt là gì, nó chiếm địa vị vô cùng quan trọng, hơn nữa, bộ phận thơ từ ở kết đoạn thường mang đến cho người đọc một cảm nhận mở, như thể lời đã dứt mà ý thì còn vô cùng, khiến cho toàn bộ tác phẩm thêm phần thi vị và phong phú. Dưới đây xin đưa ra một số ví dụ về thơ và từ trong 4 tác phẩm tiểu thuyết nổi tiếng Trung Quốc: Tam Quốc diễn nghĩa, Hồng Lâu mộng, Tây du kí, Thủy hử truyện.

1) Tam quốc diễn nghĩa 《三国演义》
Mở đầu bằng bài Lâm giang tiên 临江仙 của Dương Thận
Nguyễn Ngọc Thanh viết
滚滚长江东逝水,
浪花淘尽英雄。
是非成败转头空。
青山依旧在,
几度夕阳红。
白发渔樵江渚上,
惯看秋月春风。
一壶浊酒喜相逢。
古今多少事,都付笑谈中。
Cổn cổn Trường Giang đông thệ thủy
Lãng hoa đào tận anh hùng
Thị phi thành bại chuyển đầu không
Thanh sơn y cựu tại
Kỷ độ tịch dương hồng
Bạch phát ngư tiều giang chử thượng
Quán khán thu nguyệt xuân phong
Nhất hồ trọc tửu hỷ tương phùng
Cổ kim đa thiểu sự
Đô phó tiếu đàm trung
Trường Giang cuồn cuộn chảy về đông
Sóng vùi dập hết anh hùng
Được, thua, phải, trái, thoắt thành không
Non xanh nguyên vẻ cũ
Mấy độ bóng tà hồng!
Bạn đầu bạc ngư tiều trên bãi
Đã quen nhìn thu nguyệt xuân phong
Một bầu rượu vui vẻ tương phùng.
Xưa nay bao nhiêu việc
Phó mặc nói cười suông

Kết thúc là câu thơ:
纷纷世事无穷尽,
天数茫茫不可逃。 
Phân phân thế sự vô cùng tận
Thiên số mang mang bất khả đào
Chuyện đời rối ren vô cùng tận
Trời cao định số trốn sao đây. (NNT)

Khái niệm "diễn nghĩa" từ xưa đã có, tức là cổ nhân dùng phương pháp giảng giải lịch sử nhưng lại không chỉ giảng chuyện sử, mà là từ lịch sử để đưa ra ý nghĩa, cường điệu và xiển phát nghĩa lý tư tưởng chính thống. Sau này, người ta thường gọi khái niệm "lịch sử" là "diễn nghĩa". Tam quốc diễn nghĩa xét ở góc độ nghệ thuật, được coi là điển phạm cho thể loại tiểu thuyết diễn nghĩa lịch sử, toàn bộ tác phẩm đều nói đến các vấn đề liên quan đến một chữ "nghĩa", tuyên dương trung hiếu, tiết nghĩa, thiên mệnh, thiên lý, trị quốc, bình thiên hạ, cũng có mưu lược và trí tuệ trong đó nữa, tác phẩm biểu hiện rất rõ tư tưởng thiên mệnh trong văn hóa truyền thống. Trong tác phẩm còn bàn tới rất nhiều khái niệm "thiên ý", rằng "mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên", cho rằng những biến hóa về điềm lành dữ, biến hóa về thiên văn đều là những biểu hiện của "thiên ý", thiên ý là cái con người không thể chống lại được, con người chỉ có thể thuận theo ý trời thi hành mà thôi.


2) Hồng lâu mộng 《红楼梦》

Mở đầu bằng bài thơ
满纸荒唐言,
一把辛酸泪。
都云作者痴,
谁解其中味!
Mãn chỉ hoang đường ngôn
Nhất bả tân xoan lệ
Đô vân tác giả si
Thùy giải kỳ trung vị!
Đầy giấy chỉ là những lời hoang đường
Chỉ là một giọt lệ chua cay
Ai cũng nói tác giả si mê
Ai có thể giải được ý vị sâu kín trong đó đây!


Và kết thúc bằng bài:
说到辛酸处,
荒唐愈可悲。
由来同一梦,
休笑世人痴!
Thuyết đáo tân xoan xứ
Hoang đường dũ khả bi
Do lai đồng nhất mộng
Hưu tiếu thế nhân si!
Nói đến chỗ chua cay
Hoang đường càng thêm buồn
Trước nay chỉ là một giấc mộng
Chớ có cười thế nhân si mê! 


Hai bài thơ đầu và kết như một sự đối đáp nhưng không hẳn là đối đáp, bài đầu như giới thiệu còn bài sau lại như một sự khẳng định nỗi lòng của tác giả. Mộng chỉ tất cả sư vật hư ảo, không phải sự thật, "Hồng lâu mộng" tức là sự hư ảo cõi hồng trần vậy, tác giả muốn chuyển tải đến người đọc một thông điệp: con người biết vứt bỏ đi những si mê cõi hồng trần, khi tỉnh mộng thì minh tâm kiến tính, trở về cái bản nhiên chân thiện mĩ của con người.

3) Thủy hử truyện《水浒传》

Mở đầu bằng bài từ: 

试看书林隐处,
几多俊逸儒流。
虚名薄利不关愁,
裁冰及剪雪,
谈笑看吴钩。
七雄绕绕乱春秋。
见成名无数,
图形无数,
更有那逃名无数。
刹时新月下长川,
江湖桑田变古路。
讶求鱼缘木,
拟穷猿择木,
恐伤,
弓远之曲木,
不如且覆掌中杯,
再听取新声曲度。

Kết thúc có bài thơ:
天罡尽已归天界,
地煞还应入地中。
千古为神皆庙食,
万年青史播英雄。
Thiên Cang tận dĩ quy thiên giới
Địa Sát hoàn ưng nhập địa trung
Thiên cổ vi thần giai miếu tự
Vạn niên thanh sử bá anh hùng.
Sao Thiên Cang (tức sao Bắc Đẩu) đã quay hết về thiên giới
Sao Địa Sát vẫn còn ở trên mặt đất
Từ ngàn xưa, làm thần đều được thờ tự ở chốn miếu vũ
Muôn năm sử xanh vẫn còn lưu truyền về tấm gương anh hùng.

Thủy hử truyện nói đến sự biến loạn hưng suy của triều đại nhà Tống, nhóm nhân vật được chia làm 2 phe: 108 anh hùng Lương Sơn và phe gian thần trong triều (trung tâm là Cao thái úy - Cao Cầu). Trong truyện, cường đạo được thừa nhận thành thiên đạo, hành sự lấy chữ nghĩa làm đầu, nhưng trong mắt người ta thì họ chỉ là phường tặc khấu trên núi mà thôi. Nhưng xét đến một khía cạnh khác, họ lại được coi là những anh hùng, đó chính là văn hóa của cường đạo: "đạo tặc cũng có đạo". Điều đó phản ánh một điều: con người bất kể sinh ra ở đâu, trong hoàn cảnh nào, tuân theo những quy phạm đạo đức làm người, thay trời hành đạo, trừ gian diệt ác, bảo vệ nhân dân, đều sẽ được thần linh giúp đỡ. Tuy nhiên kết cục truyện khá thê thảm cho phe Lương Sơn, nhưng sau đó lại được nhân dân lập miếu thờ, đây chính là cái hay trong việc xây dựng hình tượng người anh hùng.


4) Tây du kí《西游记》 

Bài thơ  mở đầu: 

混沌未分天地乱,
茫茫渺渺无人见。
自从盘古破鸿蒙,
开辟从兹清浊辨。
覆载群生仰至仁,
发明万物皆成善。
欲知造化会元功,
须看西游释厄传。
Hỗn trọc vị phân thiên địa loạn
Mang mang diểu diểu vô nhân kiến
Tự tòng Bàn Cổ phá hồng mông
Khai tích tòng tư thanh trọc biện
Phúc tải quần sinh ngưỡng chí nhân
Phát minh vạn vật giai thành thiện
Dục tri tạo hóa hội nguyên công
Tu khán tây du thích ách truyền.


Bài thơ kết thúc: 
Nguyễn Ngọc Thanh viết

圣僧努力取经编,
西宇周流十四年。
苦历程途遭患难,
多经山水受迍邅。
功完八九还加九,
行满三千及大千。
大觉妙文回上国,
至今东土永留传。
Thánh tăng nỗ lực thủ kinh biên
Tây vũ chu lưu thập tứ niên
Khổ lịch trình đồ tao hoạn nạn
Đa kinh sơn thủy thụ truân chiên
Công hoàn bát cửu hoàn gia cửu
Hành mãn tam thiên cập đại thiên
Đại giác diệu văn hồi Thượng quốc
Chí kim Đông Độ vĩnh lưu truyền.

Lại có bài thơ: 

愿以此功德,
庄严佛净土。
上报四重恩,
下济三途苦。
若有见闻者,
悉发菩提心。
同生极乐国,
尽报此一身。
Nguyên dĩ thử công đức
Trang nghiêm Phật tịnh độ
Thượng báo tứ trùng ân
Hạ tế tam đồ khổ
Nhược kiến văn giả
Tất phát bồ đề tâm
Đồng sinh cực lạc quốc
Tận báo thử nhất thân.

Tây du kí là một bộ sách giác ngộ, kể về câu chuyện Đường Tăng cùng 3 đồ đệ là Tôn Ngộ Không, Trư Ngộ Năng và Sa Ngộ Tĩnh đi đến Tây Thiên bái Phật cầu kinh. Đường Tăng là vị hòa thượng luôn lấy điều từ bi làm đầu, thực mang chính khí của bậc thánh tăng, lập chí đi bái phật cầu kinh để cứu độ chúng sinh, ý chí kiên định kiên quyết không từ. Tôn Ngộ Không luôn một lòng bảo vệ sư phụ, có trước có sau; trừ bỏ điều ác, hoằng dương việc thiện, cứu người khỏi hoạn nạn. Thầy trò Đường Tăng đối với Phật pháp thật khiến cho người đời sau ngưỡng mộ và học tập, họ tuy rằng phải trải qua chín chín tám mươi mốt kiếp nạn nhưng cuối cũng vẫn lấy được chân kinh, tu thành chính quả, đắc đạo thành phật, khiến cho con người mới biết đến sự hướng thiện, ấy mới là chính đạo của con người. Tây du kí hướng tới việc giác ngộ, do đó, đây cũng là tác phẩm duy nhất trong "tứ đại danh trứ" có một kết cục viên mãn.
*
***
Các tác phẩm văn học kinh điển nổi tiếng chú trọng vào đạo đức, đề cao tính nhân văn và hướng tới tương lai, cho rằng sinh mệnh chỉ có đạo - nghĩa - tài là quý, tóm lại đó đều là những chân lý trong đạo làm người, cổ vũ con người tìm đến chốn quang minh và chân lý.