Hiển thị các bài đăng có nhãn Thơ Đường. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Thơ Đường. Hiển thị tất cả bài đăng

Đôi điều về 3 bản dịch thơ "Hoàng Hạc Lâu" của Thôi Hiệu

Thư pháp Nguyễn Ngọc Thanh
"Hoàng Hạc Lâu" - thư pháp bởi Tử Hư Nguyễn Ngọc Thanh
(Click vào ảnh để xem ảnh lớn hơn)

Blog người hiếu cổ - Trong "Toàn Đường Thi" (gồm 42.863 bài thơ của 2.520 thi sĩ đời Đường) - Nếu chỉ lấy 1 bài thơ tiêu biểu thì chắc là ai cũng chọn đó là "Hoàng Hạc Lâu" cuả Thôi Hiệu ?
"Hoàng Hạc Lâu" thuộc hàng đệ nhất luật thi đời Đường. Tác giả của thiên kỳ thi tuyệt hảo này là Thôi Hiệu (?-754) người Bịện Châu (Khai Phong-Hà nam) đỗ Tiến sĩ năm Khai nguyên 13 (725) làm Quan tới chức Tư huân viên ngoại lang,hàm tứ phẩm (cỡ Vụ phó ngày nay ). Ông tính lãng mạn,ham đánh bạc, rượu chè "của lạ" (thay vợ đến 4 lần).Hồi trẻ thơ ông diễm lệ bóng bẩy, đến cuối đời phong thái cốt cách mạnh mẽ rắn rỏi, sáng tạo tân kỳ có thể theo kịp Giang Yêm, Bão Chiếu... Ông khổ vì ngâm vịnh đến trở bệnh xanh xao hốc hác cả người (hết mình vì thơ  là vậy); Bạn ông nói đùa "không phải Bác bệnh đến như vậy, bởi khổ vì  ngâm thơ nên gầy thôi" !
Lầu Hoàng Hạc xây dựng từ thời Tam Quốc, vốn là "tửu quán" - đó là 1 trong tam đại danh lâu của xứ "Giang Nam hảo "nơi hội tụ cuả các văn nhân tài tử đến đây uống rượu và làm thơ...Theo sách "Cổ đại thi tứ cố sự" thì Thôi Hiệu đề thơ ở Lầu Hac Vàng ở tư thế: thi sỹ nhìn Hán Dương ở bờ sông bên kia, "Tình Xuyên Các" bị che lấp trong ráng chiều ta, bãi Anh Vũ giữa sông phủ một lớp cỏ dày...
Thầy giáo của NK đã từng giảng giải: cái diệu của Thôi Hiệu ở chỗ chỉ một câu tả "Lầu", còn 3 câu kia đều tả "người xưa"... trong đó câu 1 là tả "người xưa", câu 3 là nghĩ "người xưa", câu 4 là ngóng "người xưa", cứ như phớt lờ không nhắc gì đến "lầu".Câu 5-8 tiền giải là tả "người xưa", hậu giải tả "người nay", tuyệt nhiên không tả đến "lầu"... Thi sỹ chỉ nhất ý tựa cao trông xa, riêng thổ lộ hoài bão của mình.Rồi "hương quan hà xứ thị" (ở nơi này) với cây thì "lịch lịch" (in rõ), bãi thì "thê thê" (tươi tốt), riêng có mắt thì ngóng "hương quan" là không biết "hà xứ" (nơi nào). Rồi với hai chữ "nhật mộ" (chập tối lúc chim về tổ, gà vào chuồng) đặt ngang lên câu thơ làm cho 24 con chữ trong 4 câu tiền giải cùng nhảy múa tạo nên tuyệt tác để "đời sau đừng ai làm thơ về Hoàng Hạc Lâu nữa mà chuốc lấy hổ thẹn."
Vâng, đúng là thế: cái diệu của Thôi Hiệu là trong 8 câu, chỉ có một câu nói đến Lầu (câu 2).Câu 3 "Hoàng Hạc nhất khứ bất phục phản" là câu rất đặc biệt: dùng liên tiếp 6 chữ "trắc" trong câu thơ 7 chữ, bất chấp luật bằng trắc, với bút pháp ấy khiến câu thơ mang sức mạnh (nội lực) khác thường.Để làm gì? - để nhấn mạnh cái ý "tiền bất kiến cổ nhân"
- "nhất khứ" là một đi - "bất phục phản" là không trở lại... câu này nói lên cái lẽ vô thường của  mọi người, mọi việc.
Câu 3 đối câu 4: ý là thôi, đừng hoài niệm mãi nữa
Hoàng Hạc Lâu với cái ý tại ngôn ngoại đó là cái độc đáo của Đường thi mà nó là tiêu biểu số 1; và chính cũng vì lẽ đó mà xưa nay các nhà thơ ta đã bị Hoàng Hạc Lâu "thôi miên" ám ảnh, hết thế hệ này đến thế hệ khác lao tâm khổ tứ "dịch" nó, đến nay đã có ngót 100 bản dịch. Theo thiển ý của NK thì có 3 bản dịch đáng lưu ý là:
 
1. Bản dịch của Tùng Vân Nguyễn Đôn Phục
(Nam Phong tạp chí - năm 1923)

Người tiên xưa cưỡi Hạc vàng cút,
Ở đây chi những lầu hạc trơ.
Hạc Vàng đã cút chẳng về nữa,
Mây trắng nghìn năm còn phất phơ.
Sông bạc Hán Dương cây xát xát,
Cỏ lên Anh Vũ bãi xa xa.
Ngày chiều làng cũ đâu chăng tá?
Mây nước trên sông khách thẫn thờ.


Đây là bản dịch khá chối tai (rất trúc trắc) nhưng khá công phu, khá già tay (túc Nho) ; công phu ở chỗ : theo sát nhạc điệu của nguyên tác, sát cả ở những chỗ sai niêm, thất luật.

2. Bản dịch của Tản Đà:

(In ở tạp chí Ngày Nay số 80 , ngày 10-10-1937)
 
Hạc vàng ai cưỡi đi đâu ?
Mà đây Hoàng Hạc riêng lầu còn trơ
Hạc vàng đi mất từ xưa
Ngàn năm mây trắng bây giờ còn bay
Hán Dương sông tạnh, cây bày
Bãi xa Anh Vũ xanh đầy cỏ non
Quê hương khuất bóng hoàng hôn
Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai.
Đây là một bản dịch tài hoa, bay bướm nhẹ nhàng, văn chương trầm bổng theo cung điệu lục bát (đượm hồn dân tộc). Ở nguyên tác đó là cái không khí mang mang day dứt nỗi bơ vơ hiu quạnh của thân phận con người, lạc lõng giữa trần gian trong một chiều nắng tắt.Mà thiên đường thì đã mù mịt lối về.Cái không khí Hàn Lâm ấy đã bị Tản Đà thuần hóa trở nên nhu mì, mềm mại, nhẹ nhàng, trôi chảy trong dòng ca dao (lục bát). Cái HAY của Tản Đà là ở chỗ ấy, nó vào hồn người Việt là vì lẽ ấy, nhưng đó cũng là cái hụt hẫng khi dịch như thế?

3. Bản dịch của Vũ Hoàng Chương

Xưa Hạc Vàng bay vút bóng người,
Nay lầu Hoàng Hạc chút thơm rơi.
Vàng tung cánh hạc đi đi mãi,
Trắng một màu mây vạn vạn đời.
Cây bến Hán Dương còn nắng chiếu,
Cỏ bờ Anh Vũ chẳng ai chơi.
Gần xa, chiều xuống, đâu quê quán?
Đừng giục cơn sầu nữa sóng ơi!


Như ta đã biết : Thôi Hiệu  (con người phát ốm vì làm thơ đã vận dụng hết 10 phần công lực phá vỡ luật thơ thất ngôn, sử dụng 6 thanh "trắc" liên tiếp mới nói được:

Hoàng Hạc nhất khứ bất phục phản
Bạch Vân thiên tải không du du


Để đến độ hùng tâm dũng khí như Đại thi hào Lý Bạch vẫn phải gác bút (đạo bất đắc) chịu thua, cúi đầu ra đi...
Còn thi sỹ Vũ Hoàng Chương sau 1000 năm thì ung dung rút kiếm, giữa trời thơ, phóng con mắt nhìn đời dõi theo cánh hạc đã mù khơi bay mất mà thong thả dụ dắt nó quay về trong cung bậc thất ngôn niêm luật (nói theo Tô Thẩm Huy). Đó là hai câu thực của Vũ bay bổng giữa trời ảo diệu:

Vàng tung cánh hạc đi đi mãi
Trắng một màu mây vạn vạn đời


Một màu vàng lóe lên giữa trời vụt tắt, một màu vàng tung lên rồi vĩnh viễn ra đi, không bao giờ trở lại, nhưng mãi mãi lấp lánh trong tâm tưởng và thâm phận con người (kiếp nhân sinh). Đọc đến câu cuối "đừng giục cơn sầu nữa sóng ơi thì là cả một trời Đường thi bỗng lay động". Giá Thôi Hiệu phục sinh đọc bản dịch của Vũ thì chắc cũng bái phục: "Sóng ơi, sầu đã chín, xin người thôi giục,đó là sóng của bể dâu, hưng phế."
Ta thử đọc lại hai câu theo âm Hán/ Việt:
- Yên ba giang thượng sử nhân sầu
- Đừng giục cơn sầu nữa sóng ơi!


Thì sẽ thấy nội công thâm hậu của Vũ:

- Vàng tung cánh hạc đi đi mãi

Nếu đưa chữ "hạc" lên đầu câu:

- Hạc vàng tung cánh đi đi mãi

Thì cả một trời thơ lung linh tối sầm lại? Thi tài là thế - và có lẽ sau Vũ Hoàng Chương không ai nên dịch lại (Hoàng Hạc Lâu) nữa?

Góc thành nam Hà Nội ngày 27-3-2010
Nguyễn Khôi - Cẩn bút
(Từ Email của nhà văn Nguyễn Khôi gửi Blog người hiếu cổ )

Tác phẩm mới: "Tương tiến tửu"

Blog người hiếu cổ thời gian vừa qua không cập nhật bài viết thường xuyên, mong quý đọc giả thông cảm :)
Hôm nay, xin giới thiệu tác phẩm thư pháp mới mà người viết blog rất tâm đắc, xin chia sẻ cùng mọi người.
Tác phẩm: Tương tiến tửu
Tác giả: Tử Hư - Nguyễn Ngọc Thanh
Lối viết: Hành thư
Nội dung: Trích viết bài thơ "Tương tiến tửu" của thi gia nổi tiếng đời Đường - Lý Bạch
Nội dung và cảm nhận về bài thơ, xin mời tham khảo thêm theo đường dẫn sau:
http://chimviet.free.fr/39/lqnt261_tuongtientuu.htm


"Tương tiến tửu" - toàn bộ - Click để phóng to
Cục bộ 1

Cục bộ 2

Cục bộ 3

Cục bộ 4

Cục bộ 5

Cục bộ 6

Cuộc ly biệt đầy cảm xúc giữa Lý Bạch và Mạnh Hạo Nhiên tại Hoàng Hạc lâu

黃鶴樓送孟浩然之廣陵Blog người hiếu cổ - Hoàng Hạc lâu (黄鹤楼) là một ngôi tháp lịch sử, được cất trên vực đá Hoàng Hạc của núi Xà Sơn bên bờ sông Dương Tử, thuộc thành phố Vũ Hán tỉnh Hồ Bắc, Trung Quốc. Hoàng Hạc Lâu được xem là một trong bốn tứ đại danh tháp của Trung Quốc và là ngôi lầu nổi tiếng được các thi nhân ca tụng. Tuy nhiên, thơ tại lầu Hoàng Hạc nói chung đều mang không khí đượm buồn. Chúng ta từng biết đến bài thơ “Hoàng Hạc lâu” của  nhà thơ Thôi Hiệu đời Đường, nói rõ về tâm trạng buồn man mác tại lầu hạc, khi mà “hạc vàng bay mất từ xưa/mà nay Hoàng Hạc riêng lầu còn trơ” (Tản Đà dịch) rồi dẫn ra những mạch cảm xúc của chính tác giả. Bài thơ “Hoàng Hạc lâu tống Mạnh Hạo Nhiên chi Quảng Lăng” 黄鹤楼送孟浩然之广陵 (Tiễn Mạnh Hạo Nhiên đi Quảng Lăng tại lầu Hoàng Hạc) của Lý Bạch cũng mang tâm trạng chung như vậy, buồn man mác, nỗi buồn của sự chia ly, nhưng giá trị hơn cả, đó chính là một bức họa tuyệt vời mà không bút nào có thể vẽ nên được.
Cũng có rất nhiều họa gia công phu tìm hiểu ý tứ của Lý Bạch để vẽ nên những bức họa hết sức tuyệt vời về khung cảnh chia ly ở một không gian hùng vĩ như vậy. Xem ảnh bên, Lầu Hoàng Hạc đứng kiêu hãnh trên vách núi, hướng ra Trường Giang hùng vĩ, cùng với những cánh buồm nhỏ xíu như sắp bị dòng sông nuốt chửng. Khung cảnh hùng vĩ mà mờ ảo này toát lên sự hùng vĩ của thiên nhiên, đè nặng lên cánh buồm nhỏ nhoi của con người, không khí chia ly lại càng được lột tả rõ nét.

Dưới đây tôi xin phân tích đôi nét về bài thơ :

故人西辞黄鹤楼,
Cố nhân tây từ Hoàng Hạc lâu
烟花三月下扬州。
Yên hoa tam nguyệt há Dương Châu
孤帆远影碧空尽,
Cô phàm viễn ảnh bích không tận
唯见长江天际流。
Duy kiến Trường Giang thiên tế lưu.

Dịch nghĩa:
Bạn tri kỷ đã từ biệt ta từ lầu Hoàng Hạc ở phía Tây (để đi về Đông)
Tháng ba, tháng của hoa liễu rủ như những bông hoa khói, diễm lệ là thế, cũng là lúc ta phải xuống Dương Châu.
Cánh buồm cô liêu đã đi xa tít tắp, màu xanh của núi non lại vô tận.
(Lúc này thuyền đã khuất bóng), ta chỉ còn thấy dòng Trường Giang chảy mãi đén tận chân trời.
***
Bình sinh, Lý Bạch là người rất thích ngao du thiên hạ, ông đã đi hết khắp trong ngoài cõi Trung Nguyên. Ông từng viết một câu thơ nói lên quan điểm của mình rằng:
Nhân sinh quý ở chỗ biết nhau
Cần gì phải nghĩ đến kim với tiền
(Tặng hữu nhân – bài thứ 2/3)
Câu thơ thể hiện rõ tinh thần của ông về đạo cư xử có trước có sau và thành tín giữa bạn bè, đồng thời nói lên tình cảm rất nồng hậu mà mãnh liệt của nhà thơ với bạn hữu. Trong số các bạn bè của Lý Bạch, Mạnh Hạo Nhiên là nhân vật xuất hiện rất nhiều trong thơ ông. Lý Bạch yêu mến Mạnh Hạo Nhiên ở nhiều mặt, thơ văn, tính cách, sự nghiệp… Vì thế mà ông đã phải thốt lên rằng “Ta yêu mến Mạnh phu tử”.
Bài thơ “Hoàng Hạc lâu tống Mạnh Hạo Nhiên chi Quảng Lăng” được Lý Bạch viết trong bối cảnh năm 729 (tức năm thứ 13 niên hiệu Khai Nguyên thời Đường Huyền Tông), Lý Bạch đi thuyền từ Tứ Xuyên đến phía Đông Trường Giang, trên đường đã đi qua rất nhiều nơi. Đến mùa xuân năm 726, Lý Bạch đi đến Quảng Lăng và ở đó vài tháng. Mùa đông năm ấy, ông rời Quảng Lăng, du ngoạn ở phuowng Bắc. Sau đó đến Tương Dương, nghe nói Mạnh Hạo Nhiên ẩn cư ở núi Lộc Mộc ở phía Đông Nam thành thì liền đến để thăm hỏi. Mạnh Hạo Nhiên đọc thơ Lý Bạch, hết lời khen ngợi, hai người nhanh chóng trở thành bạn hữu tri kỷ. Mạnh Hạo Nhiên rất nhiệt tình khoản đãi Lý bạch, và giữ ông ở lại đó hơn 10 ngày. Đến tháng 3 năm 730, Lý Bạch được biết mạnh Hạo Nhiên muốn đi Quảng Lăng, liền nhờ người đưa tin, hẹn gặp Mạnh Hạo Nhiên ở Giang Hạ (nay là thành phố Vũ Hán của Trung Quốc). Rồi họ gặp nhau ở lầu Hoàng Hạc tại Giang Hạ. Vài hôm sau, Mạnh Hạo Nhiên đi thuyền xuống phía Đông, Lý Bạch đích thân tiễn đến bờ sông. Thuyền đi, Lý Bạch đứng bên bờ sông ngóng thuyền Mạnh Hạo Nhiên khuất bóng, cảm xúc dâng trào mãnh liệt, liền viết bài thơ “Hoàng Hạc lâu tống Mạnh Hạo Nhiên chi Quảng Lăng”. Do đó, chúng ta có thể thấy được tình bản rất đáng quý của hai người. Bài thơ này là tác phẩm rất tiêu biểu của Lý Bạch, đã trở thành bài thơ quen thuộc, cửa miệng của rất nhiều người.

Bài thơ “Ô Y hạng” của Lưu Vũ Tích và lịch sử “ngõ áo đen”

Ô Y hạng
Blog người hiếu cổ - “Ô y hạng” (ngõ áo đen) nằm ở miếu Phu Tử tại Nam Kinh, Trung Quốc, phía nam cầu Văn Đức có một ngõ nhỏ rất yên tĩnh, trên bức tường đầu ngõ viết rõ 3 chữ “烏衣巷”. Lịch sử của Ô Y hạng rất lâu đời, là nơi đóng quân cấm vệ nước Đông Ngô thời Tam Quốc. Bởi vì đương thời, cấm vệ quân mặc quân phục màu đen, nên khu này được gọi là “Ngõ áo đen”. Đến thời Đông Tấn, Ô y hạng trở thành nơi cư trú của các nhà đạt quan quý tộc mà đại biểu là hai nhà họ Tạ (tể tướng Tạ An謝安) và họ Vương (tể tướng Vương Đạo王導). Lại có truyền thuyết kể rằng con cháu họ Vương, họ Tạ rất thích mặc áo đen, nên người ta gọi con cháu họ Vương, Tạ là “Ô y lang”, và đất này được gọi là “Ô y hạng”.
Vương Đạo, phò tá sáng lập ra vương triều Đông Tấn; Tạ An chỉ huy cuộc chiến ở sông Phì, lấy ít địch nhiều, đánh bại đại quân trăm vạn người của nhà Tần, trở thành danh tướng một thời. Con cháu họ Vương, họ Tạ cũng rất nhiều nhân tài kiệt xuất, trong đó họ Vương có các nhà đại thư pháp nổi tiếng như Vương Hi Chi王羲之, Vương Hiến Chi王獻之, Vương Tuân王洵; nhà họ Tạ có Tạ Linh Vận là tổ của thi phái sơn thủy của Trung Quốc, cùng với Tạ Huệ Liên謝惠連 và Tạ Diểu謝眺trở thành “tam Tạ” trong lịch sử văn học Trung Quốc.
Đến thời Đường, Ô y hạng trở thành một gò hoang phế, nhà thơ Lưu Vũ Tích đã viết bài thơ “Ô y hạng” để tỏ sự cảm thán với phế tích này, miêu tả rõ về sự biến hóa biển dâu của Ô y hạng từ thời Lục triều đến thời Trung Đường. Nội dung bài thơ như sau:
Chữ Hán:
朱雀橋邊野草花,
烏衣巷口夕陽斜,
舊時王謝堂前燕,
飛入尋常百姓家。
Phiên âm:
Chu tước kiều biên dã thảo hoa,
Ô y hạng khẩu tịch dương tà.
Cựu thời Vương Tạ đường tiền yến,
Phi nhập tầm thường bách tính gia.
Dịch nghĩa:
Bên cầu Chu Tước, cỏ hoa mọc tốt tươi
Đầu ngõ Ô y, bóng chiều dương đã xế tà
Khi xưa, trước nhà họ Vương, họ Tạ đầy chim yến bay lượn
(Nhưng nay), yến bay vào nhà những người dân bình thường.