Hiển thị các bài đăng có nhãn Văn hóa truyền thống. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Văn hóa truyền thống. Hiển thị tất cả bài đăng

Phân tích một số từ biểu thị sinh thực khí nam giới trong cách gọi dân gian (tiếp)

Kính thưa quý vị độc giả, tại bài viết "Phân tích một số từ biểu thị sinh thực khí nam giới trong cách gọi dân gian" kì trước, chúng tôi đã đưa ra một số suy xét ban đầu về nguồn gốc của 1 số từ biểu thị sinh thực khí nam giới, tuy nhiên còn nhiều hạn chế. Hôm rồi, nhà nghiên cứu Trần Quang Đức có viết cho tôi một bài phân tích về nguồn gốc từ BUỒI (sinh thực khí nam) rất hay, xin đăng lại lên Blog người hiếu cổ để tiếp nối bài viết trước.

Do có vài người bạn hỏi về từ nguyên của một số từ trong tiếng Việt, đêm qua suy nghĩ miên man, chợt nhận ra từ BUỒI, sinh thực khí nam, với từ VÒI trong cụm vòi voi, vòi rồng, vòi nước có cùng nguồn gốc. Thứ nhất, về mối liên hệ ngữ âm giữa BUỒI - VÒI. 

1. BUỒI là biến âm của /bòi/. 
Từ điển Việt - Bồ - La của Alexandre de Rhodes, thế kỷ 16, ghi nhận /bòi/ cùng nghĩa với /cặc/, chỉ sinh thực khí của đàn ông. 

2. Theo lịch sử ngữ âm tiếng Việt, bộ phận phụ âm /v/ có nguồn gốc là phụ âm /b/. 
Một số từ trong tiếng Việt hiện đại còn phản ánh hiện tượng này, như: béo - véo, bấu - vấu, bú - vú, bùng - vùng, bổng - vổng v.v. Thứ hai, về mối liên hệ ngữ nghĩa giữa BUỒI / BÒI - VÒI. Cả hai từ đều có chung một số tính chất sau: 1. Độ dài; 2. Độ rủ; 3. Độ rỗng; 4. (+/-) Khả năng hút hoặc phun nước. Tóm lại, với các mối liên hệ kể trên, có thể khẳng định BUỒI / BÒI và VÒI là từ đồng nguyên (cùng nguồn gốc).

Chú thích ảnh:
1. Hình giải phẫu sinh thực khí nam.
2. Chữ Nôm: bòi / vòi (cùng một mã chữ).
3. Vòi nước máy.
4. Con vòi voi.
5. Con voi.
6. Vòi rồng

Tục tắm tiên xưa và nay

Nếu như ngày nay, nhiều người Việt xa lạ với tục tắm truồng thì hồi đó nó rất phổ biến như một thói quen sinh hoạt hằng ngày mà không ai phải ngượng, cũng không có gì xấu hổ hay tục bậy cả. Tục này tùy từng vùng còn tồn tại cho đến cuối thế kỷ 20 mới mất dần.

Nhưng có gì lạ đâu? Đã tắm thì phải 'cởi' đồ, có điều sự lạ ở đây là cái 'cởi' trong nhà tắm khác cái 'cởi' ở nơi công cộng hay giữa cảnh trời bao la. Vậy thế nào là tục tắm tiên, tắm truồng?
Xưa kia, mỗi làng thường chỉ đào một giếng khơi lớn dùng để tắm giặt và một giếng sâu để lấy nước ăn, tất nhiên ngoài hai giếng chung này mỗi giáp hay mỗi gia đình nếu khá giả đều có thể đào giếng nhỏ riêng nhưng đa phần sinh hoạt của làng thường kề cận bên chợ làng hoặc giếng chung - tức là giếng làng...

Vét giếng ăn của làng (ảnh xưa).
Cái giếng ăn của làng được thiết kể rất cẩn thận: từ đáy lên trên thành được xếp bằng những khối đá, gần lên miệng xây bằng gạch và vun cao thành rồi be bờ láng nền rất kỹ bằng vôi mật để nước trên bề mặt không ngấm xuống dưới. Miệng giếng tuy nhỏ nhưng lòng giếng khá rộng. Hồi xưa, người ta đã biết xác định nguồn nước sạch vĩnh viễn là cần thiết nên có những giếng ăn sâu từ 7 đến 15 thước hoặc hơn nữa.
Còn giếng khơi dùng tắm rửa hay giặt giũ có thể làm theo hình tròn hay hình vuông có thành lan can thấp lại có bậc lên xuống giếng từ hai phía đối nhau.
Có khi người ta làm giếng hình tròn nhưng lan can lại xây vuông. Cứ đến chiều tối, khi trâu bò về chuồng rồi thì nhiều người dân ra giếng vệ sinh thân thể.Đàn ông và đàn bà, từ già đến trẻ, chia làm hai bên đứng tắm. Họ có thể cởi trần truồng hoàn toàn, dùng gầu bằng mo cau hay bằng thùng gỗ cột dây thừng quăng xuống giếng múc nước dội lên người.

Tập quán thường ngày nên người ta không thấy gì đáng mắc cỡ (ảnh xưa - triển lãm ảnh tại Hà Nội).
Trong thật tế thì người ta cũng làm hai nơi tắm có ngăn phên vách nhưng thường chủ yếu chỉ để... vắt quần áo chứ chả ai tắm trong đó mà cứ tự nhiên ngồi đứng đối diện nhau. Đàn ông thường tắm trần trụi hoàn toàn và nếu có liếc sang bên nữ cũng không có vấn đề gì. Đàn bà từ trung niên tới già và trẻ con cũng tắm truồng, thanh niên thì người thì cởi áo rồi kéo váy trùm lên ngực là xong...Vậy nhưng không ít cô cậu cứ 'một tòa thiên nhiên', chả cần phải che đậy làm gì do quan niệm xưa: chuyện tắm không mặc đồ bên giếng làng không phải chuyện gì khác thường cả.

Ô kìa bóng nguyệt trần truồng tắm, lộ cái khuôn vàng dưới đáy khe... 
(thơ Hàn Mặc Tử - ảnh trên bưu thiếp xưa, triển lãm ảnh tại Hà Nội).
Đường kính của giếng khơi lớn này tới hàng chục thước nên hai bên đứng cách nhau khá xa. Tuy nhiên bên này, bên kia vẫn có thể vừa tắm vừa trò chuyện, cười nói... âu như cũng là lẽ thường tình.

Người ta cho rằng từ trẻ con đã nhìn thấy người lớn khỏa thân nên những ức chế tình dục có thể được giải tỏa, nhất là trong một xã hội rất khắt khe với việc ngoại tình hay quan hệ tình dục ngoài hôn nhân.
Vì vậy trong những vùng có tục tắm tiên, tắm truồng này hầu như không có những chuyện bậy bạ lăng nhăng.
Tắm tiên giữa trời đất tại Nghĩa Lộ.
Những làng gần sông nước thì nơi bờ sông trở thành bãi tắm cộng đồng vào mỗi chiều tà, sau khi xong việc đồng áng. Nước lớn, người ta cởi áo quần vắt trên bờ rồi xuống sông hòa mình với dòng nước. Mùa cạn, mực nước xuống thấp, họ cứ thế tồng ngồng xuống bậc múc nước lên bờ dội tắm, xem đó là việc tự nhiên, ai cũng thế. Năm 1944, người chú họ xa của tôi rời Hà Nội về vùng xa Phú Thọ dạy học trường làng và ở nhờ nhà người quen cũ. Lúc ấy, 'cụ chú' mới chỉ là một thanh niên mặt mày sáng sủa vừa tròn 23 cái xuân xanh (ông cụ vừa mất năm rồi). Làng quê hẻo lánh thưa thớt dân, lúp xúp những mái nhà giữa chập chùng đồi núi. Chiều ra đứng cạnh cửa sổ, ông giật mình vì thấy chị chủ nhà đứng trần trụi, không mảnh vải che thân bên giếng, tay thoăng thoắt kéo nước lên dội tắm ào ào. Ông ngại ngần lật đật quay ngoắc vào, cho rằng do chị nhiều tuổi (thật ra chị mới ngoài ba mươi), đã có chồng con nên không cần giữ kẻ... thành ra cứ tự nhiên tắm táp hay dám chừng do tính tình chị ta... gàn dở!
Tắm tiên: một tục lệ phóng khoáng đang mất dần...
Giấc chập choạng tối, ông ở trần mặc quần cộc ra giếng. Dội nước được dăm phút thì thấy cô con gái tuổi chừng đôi tám (ngày xưa, từng này tuổi là chuẩn bị về nhà chồng) con gái lớn của chị chủ nhà vắt khăn ra giếng tắm. Thấy ông, cô gái trố mắt ngạc nhiên hỏi 'sao chú tắm mà... mặc quần?'. Rồi cô gái thật tự nhiên thoát y hết cả, vắt đồ lên dàn tre phơi gần đó và múc nước dội thật vô tư. Tay cô kỳ cọ, miệng luyên thuyên hỏi đủ thứ chuyện thành thị mặc cho ông trong lòng ngượng chín người.
Thiếu nữ tắm trần thi thoảng vẫn nhìn thấy ở các bản làng.
Hóa ra tập quán bao đời nay ở nơi đó vẫn vậy: các cô có thể ngại ngùng đỏ mặt khi trai làng tán tỉnh nhưng tắm truồng ngoài giếng trong vườn nhà lại là chuyện đương nhiên như ai cũng phải thế, chả ai săm soi áy náy gì!
Ở miền núi, nơi có nguồn nước chảy ra thành vũng lớn tự nhiên có cây mọc hay đá chắn làm đôi bên là trở thành bến tắm, nam nữ cứ trần trụi xuống hòa mình giữa dòng nước theo bên của mình. Có bản thì kín đáo hơn, các cô xuống nước đến đâu thì cởi đến đó, chiếc váy dài nâng dần lên theo cơ thể, rồi đội lên đầu hay đặt trên các hòn đá. Đôi khi cả bản tắm chung một con suối dài thì đoạn trên phía thượng nguồn nhường cho phụ nữ, đoạn dưới là cho đàn ông. Nếu ít người thì trai gái có thể tắm cùng trong một đoạn, vẫn trao đổi câu chuyện nương rẫy bình thường nhưng tuyệt đối người nam không đụng chạm đến người nữ vì sẽ bị bản làng trừng phạt nặng lắm.
Tiền nhân vẫn tắm thật vô tư (ảnh xưa trong triển lãm ảnh HN).
Tập tục phóng khoáng nhưng trong sáng này đến những năm 1945 gần như biến mất ở Bắc Ninh, Hải Dương, Hải Phòng nhưng ở các vùng Thanh Hóa, Hòa Bình, Phú Thọ vẫn còn kéo dài đến những năm 1965.

Ở Nam Hà, tại một vùng sông nước: đến tận những năm 1990, các nữ sinh địa phương cứ chiều đến là kéo quần lụa trùm lên bộ ngực rồi nhảy ùm xuống sông, khi đã ở dưới nước thì cởi bỏ áo. Hiện ở Mai Châu có một vài nguồn suối tắm như vậy, tuy nhiên trừ những người già và trẻ con còn phần đông thanh niên bây giờ đã kín đáo hơn ngày xưa.
Người ta dùng ống tre dẫn nước từ núi về nơi tắm giặt tại Tây nguyên (ảnh xưa).
Tắm tiên và tắm truồng có lẽ là tập tục rất lâu đời của thổ dân Nam Á xưa. Nhiều tộc Nam Á cổ xưa cả đàn ông để mình trần và chỉ quấn một cái váy. Đàn ông Việt cổ cũng ở trần cả ngày và đóng độc một chiếc khố, phụ nữ đôi khi cũng bận như vậy, nhất là trong các sắc tộc Tây Nguyên. Vài sắc tộc phụ nữ quấn ba khoang: váy, khăn che ngực và khăn đầu. Trong y phục Mường, ba khoang này trở thành khăn che đầu và váy với cạp cao có hai phần gọi là “Rang trên” và “Rang dưới” cộng thêm chiếc áo khóm ngắn. Khí hậu nóng ẩm mưa nhiều, rừng và sông hồ dày đặc, con người thuần phác sống tự do phóng khoáng, ngày nào cũng làm tiên chả vui sao?
Nhiều năm nay: nét văn hóa ấy mai một dần. 'Một đống' văn mình từ miền xuôi tràn về đến những bản làng xa xôi nhất với các kiểu cách trang sức, xúng xính áo quần như mốt thành thị.

Áo mông váy xòe vẫn còn đấy nhưng miệng các cô chăm chú liếng thoắt qua điện thoại di động, trai vùng cao săm soi lau rửa chiếc xe gắn máy mới cóng - nhà nhà cơi rộng, đường dẫn nước về cho từng căn khiến nhà tắm riêng của từng hộ cũng thành chốn không thể thiếu: nét văn hóa tắm tiên, tắm truồng ngày xưa phai nhạt gần như mất hẳn.
Săn ảnh: cái chính là làm sao cho có được bức ảnh đẹp và cách gì để người xem ảnh đó 
dưới cái nhìn nghệ thuật và trong sáng...
Dân phượt lê lết mọi ngóc ngách vùng cao, vừa tìm kiếm bản sắc văn hóa - lại vừa thưởng lãm cảnh đẹp thiên nhiên đôi khi được tưởng thưởng bằng cảnh hiếm hoi của gái bản làng tắm ven suối... tạo ra những bức tranh đơn sơ nghệ thuật vô cùng nhưng những cảnh ấy bây giờ ít lắm.

Ít vì đại đa phần người ta về nhà tắm, ít vì người vùng xuôi cứ hay tò mò ngắm nghía, quay phim... rồi những cái đầu 'trục trặc' ở thành thị lại bàn tán linh tinh trong ý nghĩ đen tối, thui chột cả một nét văn hóa đẹp.
Tắm truồng tại mó nước nóng Tú Lệ.
Vậy nên tục lệ trên dần phai nhòa, các cô gái cùng tắm tiên bên giếng làng giờ chỉ còn sót lại một đôi chốn ở Tây nguyên. Tắm tiên nơi công cộng cũng còn vương lại tại vài mó nước nóng ở Nghĩa Lộ, Tú Lệ...
Còn chuyện sơn nữ tắm tiên giữa rừng núi ngày hiếm hoi nên muốn có được một tác phẩm nhiếp ảnh đẹp để đời thì ngày nay các tay săn ảnh nghệ thuật phải dàn dựng cùng người mẫu. Ảnh có thể đẹp thật, thanh thoát cả lòng nhưng cái hồn thì làm sao có thể sánh được sự đơn sơ, và trong sáng không vương chút bụi trần của những cô gái khỏa trần dưới dòng suối giữa núi rừng vùng cao ngày ấy?

Có lẽ Trời xui đất khiến: người thành thị bây giờ lại tự tìm đến cái thú tắm tiên, ví dụ như ở bãi sông Hồng, ở các bãi biển hoang sơ và những đảo vắng người...
Người ta chán văn minh hay người ta luyến tiếc muốn tìm lại một chút gì đó của thời xưa cũ?
Chả biết được...

Du lịch, GO!
Biên tập từ nguồn thông tin của Phan Cẩm Thượng, cụ Lương Văn Bằng, ảnh sưu tầm.

Một bài thuốc chữa bệnh trĩ hiệu quả trong dân gian

Ấp lá thầu dầu - Kỹ thuật người An Nam (Henri Oger)
Blog người hiếu cổ - Tôi có đọc một số bài thuốc chữa bệnh trĩ trong dân gian, trong số đó có đề cập đến tác dụng của cây thầu dầu. Có bài cho rằng giã nát lá thầu dầu ra rồi đắp vào hậu môn thì trĩ sẽ kéo lên và khỏi, có bài cho rằng giã nát lá thầu dầu rồi đặt lên đầu... Tuy nhiên khi tìm kiếm trong các tài liệu xưa, tôi tạm thời chưa thấy có ghi chép thực sự đầy đủ về những phương pháp trên. Duy có xem trong sách "Kỹ thuật của người An Nam" của Henri Oger, có một hình vẽ với tựa đề ghi bằng chữ Nôm là "Ấp lá thầu dầu" và phần chú thích bằng tiếng Pháp rằng: "Phương pháp chữa bệnh trong dân gian" nhưng không nói cụ thể là chữa bệnh gì.
Qua hình vẽ này, chúng ta thấy những chiếc lá thầu dầu được để nguyên, không giã nát và đội lên đầu người bệnh. Điều này trùng với cách chữa bệnh trĩ ở Nghệ An, mà theo một bài viết về vấn đề này, tác giả bài viết nói "đây là bài thuốc truyền đời được cho là chữa bệnh trĩ hiệu quả" (Hoài Nghệ - Báo Pháp luật VN, Đội lá thầu dầu chữa dứt bệnh trĩ?
Xin đưa lại nguyên văn bài báo để chúng ta cùng tham khảo:

Đội lá thầu dầu chữa dứt bệnh trĩ?

Số liệu thống kê của cơ quan y tế cho thấy có hàng triệu người dân Việt Nam đang ngày ngày âm thầm chịu đựng nỗi khổ vì những sự phiền toái và khó chịu từ căn bệnh trĩ. Ít ai biết ở Nghệ An, từ hàng chục năm nay đã có một bài thuốc truyền đời được cho là kỳ dị chữa bệnh trĩ cực kỳ hiệu quả: Đội lá thầu dầu.
“Bệnh khốn bệnh khổ”
Trĩ là bệnh tạo thành do tĩnh mạch trực tràng và hậu môn bị giãn từ áp lực trong ổ bụng, áp lực trong trực tràng và trong ống hậu môn tăng cao. Bệnh này có hai dạng trĩ nội và trĩ ngoại, triệu chứng dễ nhận biết là người bệnh bị chảy máu mỗi khi đi đại tiện hoặc hiện tượng búi trĩ “thò lò” ra ngoài hậu môn.
Mặc dù không gây nguy hiểm “cháy nhà chết người” nhưng người bị trĩ luôn cảm thấy cực kỳ khó chịu, thường xuyên có cảm giác vướng víu, đứng ngồi không yên. Theo thống kê của các cơ quan y tế, thời gian gần đây căn bệnh tế nhị này trở nên “nóng” hơn bao giờ hết khi có một số trường hợp suýt mất mạng chỉ vì chữa trĩ không đúng cách.
Nhưng từ lâu nay, trĩ chỉ là “bệnh vặt” với người dân huyện Nam Đàn (Nghệ An) bởi họ “cậy” vào bài thuốc của một lương y ở xóm 2 Tăng Tiến, xã Hùng Tiến (huyện Nam Đàn). Theo lời kể của những người từng chữa khỏi bệnh, bài thuốc này đặc biệt hiệu nghiệm, uống vào chỉ sau một ngày là có chuyển biến trông thấy, giúp cầm máu và đỡ đau rát, hết đợt điều trị là cũng hết cả trĩ nội lẫn trĩ ngoại.
Phần lớn bệnh nhân sau khi chữa khỏi đã nhiệt tình giới thiệu cho những người “cùng chung cảnh ngộ”, khiến ngôi nhà của vị lương y ở cách thành phố Vinh gần 20km lúc nào cũng đông người đến xin thuốc.
Ngôi nhà ở sâu tận trong ngóc ngách, không biển hiệu quảng cáo nhưng từ ngoài quốc lộ đã có thể hỏi đường từ những người dân. Cách ngõ nhà một đoạn đã nghe mùi thuốc bắc thơm lừng. Anh Hoàng Năng Thành (SN 1965) cho biết anh là người kế tục nghề thuốc của cha sau khi ông cụ mất cách đây một thời gian.
Anh đã phải chuyển từ Vinh về sống tại ngôi nhà ở quê để có điều kiện tiếp tục chữa bệnh cho người dân và gìn giữ những bài thuốc gia truyền. Hỏi về bài thuốc chữa trĩ, anh Thành cười: “Phải đến một nửa người đến lấy thuốc ở đây bị mắc bệnh này. Đây là chứng bệnh rất phổ biến và không khó chữa nhưng nhiều người để bệnh nặng mới bất đắc dĩ tìm thầy, chỉ vì… thấy ngại quá”.
Anh Thành cắt thuốc và giải thích công dụng của việc đội lá chữa bệnh
Anh Thành cắt thuốc và giải thích công dụng của việc đội lá chữa bệnh

Khi bị trĩ hành hạ, người bệnh chỉ còn biết “nghiến răng” nguyền rủa cái thứ “bệnh khốn bệnh khổ” rồi ngọ nguậy tư thế đi, đứng, nằm, ngồi cho đỡ đau, ngoài ra chẳng biết làm thế nào. Đã bị trĩ thì làm gì cũng không thoải mái, có người ngày nào cũng mất vài tiếng đồng hồ ngồi trong nhà vệ sinh.
Nhưng thực tế cho thấy phần lớn người bệnh khi bắt đầu phát hiện dấu hiệu lại không đi chữa ngay, một phần vì coi nhẹ bệnh không gây chết người, một phần vì tâm lý ngại nói bệnh ở chỗ tế nhị, nhất là phụ nữ. Để bệnh kéo dài sẽ chuyển nặng mất máu lâu ngày làm suy nhược cơ thể, gây phiền phức vô cùng cho mọi sinh hoạt, thậm chí có thể biến chứng nguy hiểm đến tính mạng.
Anh Thành kể có người hơn 10 năm “sống chung với trĩ”, khi khỏi bệnh mới đau khổ tâm sự: “Biết thế chữa sớm vì thú thực, bao năm nay đi đến đâu cũng nể người ta mà ngồi nhin nhín, chứ tui có ngồi được đâu, khó chịu ghê gớm lắm”.

Kỳ dị ngày hai lần đội lá thầu dầu
Một điểm đặc biệt trong bài thuốc chữa trĩ ở đây là người bệnh đều được thầy căn dặn phải nhớ đội lá thầu dầu mỗi ngày nếu muốn bệnh khỏi nhanh. Hỏi những người đã chữa khỏi bệnh về tác dụng của hành động này, hầu hết đều lắc đầu không biết: “Thầy dặn sao thì làm vậy, nghe nói đội lá đó sẽ kéo trĩ đi lên”. Nhiều người không tin vào chuyện kỳ cục như vậy nên cho rằng chẳng qua đây là “mẹo” của thầy thuốc để củng cố tâm lý cho người bệnh, đồng thời “đánh bóng” cho phương thuốc có vẻ bí truyền.
Tuy nhiên lời giải thích của anh Thành lại khiến những ai có ý nghi ngờ đều phải “mắt tròn mắt dẹt” lắng nghe: Việc sử dụng lá thầu dầu là một thủ thuật chiếm vai trò quan trọng trong bài thuốc chữa trĩ. Đội lá không phải là “chiêu trò” gì mà có tác dụng thực sự.
Theo sách Đông y, lá thầu dầu (hay còn gọi là dầu vét) là vị thuốc có tính “thăng đề” (đi lên), khi người bệnh trĩ đội lá thầu dầu trên đầu, tính thăng đề của lá sẽ phát huy tác dụng, hỗ trợ việc đưa búi trĩ thòi ra trở về vị trí ban đầu. Một ngày cần hai lần đội lá, sáng và tối, mỗi lần cách nhau khoảng 12 tiếng, tốt nhất khi thư giãn hoặc làm việc nhẹ.
Lá thầu dầu
Lá thầu dầu
Anh Thành chia sẻ thêm thực tế cũng không tránh được có người cho rằng đây chỉ là chữa mẹo. Không phải người bệnh nào cũng hỏi cặn kẽ vì sao phải đội lá và không phải ai anh cũng có điều kiện giải thích. Có người ở xa gọi điện về “khoe” một lần ông ta đội tới bảy lá (quan niệm con số 7 của đàn ông, con số 9 của đàn bà) vì nghĩ đội càng nhiều càng tốt.
Anh Thành khi ấy đã phải “đính chính” chỉ cần đội một lá trong vòng một tiếng là đủ, nếu đội nhiều đội lâu thì sẽ kích thích lớn đến thần kinh. Đội lá thầu dầu mang lại tác dụng tốt và thực hiện đơn giản, lá cây dễ kiếm, bứt một lá đặt lên đầu, đội thêm một chiếc mũ để giữ lá khỏi rơi, người bệnh vẫn đi lại sinh hoạt bình thường. Buổi tối khi có điều kiện nằm nghỉ ngơi, thay vì đội lá có thể đặt lá úp lên rốn sẽ cho tác dụng tốt hơn nữa.
Anh Thành cho biết tùy theo mức độ bệnh và cơ địa từng người, nhìn chung đối với những người bị bệnh trong vòng một năm trở lại, bài thuốc gia truyền của anh có thể giúp trị dứt điểm trong khoảng 12 ngày với 3 thang thuốc, kết hợp với các thủ thuật bên ngoài như đội lá thầu dầu. Cách sắc thuốc cũng yêu cầu tuân thủ quy định: Lần một, đổ 5 bát nước đun cạn lấy bốn bát; hai lần sau đó đều đổ bốn bát lấy 3,5 bát; sau đó tập trung cả mấy lần nước đã gạn rồi đổ thêm hai bát nước nữa đun sôi nhỏ lửa trong khoảng 30 phút là được.
Thuốc sắc từ mỗi thang uống được trong bốn ngày, mỗi lúc uống cần đun sôi lại để đảm bảo chất lượng. Theo giải thích của anh Thành, nếu uống thuốc đặc quá, cơ địa con người không hấp thụ hết sẽ bài thải. Nếu thuốc nhạt quá lại không đủ độ, vì vậy cách sắc thuốc như trên sẽ giúp thuốc uống lần đầu cũng như lần cuối, không đặc quá, không nhạt quá.
Việc điều trị lần một đơn giản hơn rất nhiều so với phải điều trị lại. Nếu sau khi khỏi, người bệnh không giữ gìn để tái phát thì việc chữa trị phức tạp hơn nhiều, cả liều lượng thuốc và thời gian đều phải kéo dài. Xuất phát từ nguyên nhân gây bệnh, những người có nguy cơ vướng phải bệnh trĩ là phụ nữ sau khi sinh, những người thường xuyên phải làm việc chân tay quá nặng và cả những người phải ngồi làm việc triền miên ít vận động, hoặc những “đệ tử” của bia rượu và các chất kích thích có hại…
Theo lời khuyên của lương y, những người thuộc các nhóm trên cần biết giữ gìn sức khỏe để không gặp phải căn bệnh khó chịu trên, nếu phát hiện có dấu hiệu cần chữa trị càng sớm càng tốt, và tránh để tái phát.
Một số lời khuyên khác cho người mắc bệnh trĩ:
Mỗi buổi sáng thức dậy nên uống một cốc nước sôi nguội vào mùa hè và nước sôi ấm vào mùa đông. Không ngồi quá nhiều, đặc biệt tránh ngồi xổm; vận động ở mức độ trung bình, không nên gắng quá sức; hạn chế các chất kích thích như rượu bia, đồ ăn cay nóng…
Khi có dấu hiệu mắc bệnh cần giữ vệ sinh bằng cách xông rửa đều đặn đúng cách, sử dụng lá lốt, lá mướp đắng, lá hoặc hoa thiên lý đun sôi, dùng để xông hậu môn khi nước nóng và ngâm khi nước nguội.

Vì sao hổ lại được gọi là Ông Ba Mươi?


Tiếng Việt có nhiều cách gọi tên cọp : hổ, hùm, khái ; có khi vì kiêng dè hay tôn xưng, người ta còn gọi ông kễnh, ông ngài, ông thầy, ông cả. Lại còn tên ông Ba Mươi, gây thắc mắc.
Lối giải thích của chúng tôi, tên này là do tục lệ tế thần Xương Cuồng hằng năm, vào ngày Ba Mươi Tết, có từ thời Văn Lang, theo sách Lĩnh Nam Chích Quái, trong truyện Mộc Tinh. Người Văn Lang gọi Mộc Tinh, thần Cây Cối, là Xương Cuồng, như một ẩn dụ, ám chỉ loài thú dữ là cọp.
Đây là giả thuyết, chúng tôi coi như một phát hiện, đưa ra để được trao đổi.
Lĩnh Nam Chích Quáilà sưu tập những truyền thuyết dân gian có từ thời Lý Trần được Vũ Quỳnh và Kiều Phú san định vào thời Hồng Đức, cốt lõi gồm 23 truyện. Trong bốn truyện cơ bản gắn liền với nguồn gốc dân tộc, có truyện Mộc Tinh. Vũ Quỳnh, trong bài tựa viết 1492, minh định Xương Cuồng là thần cây chiên đàn.
Chiên đàn trong tiếng Hán Việt là một loài gỗ thơm. Theo điển tích, chiên đàn trồng nơi trường học, tượng trưng ông thầy giảng học, như trong truyện Phan Trần : « chiên đàn còn thoảng mùi hương lạ đời ».
Theo Lĩnh Nam Chích Quái, thì lại là một cây vĩ đại, « trải qua hằng mấy ngàn năm khô héo mà biến thành yêu tinh, thường thay đổi dạng, rất dũng mãnh, có thể giết người hại vật, (…) biến hóa khôn lường, thường ăn thịt người ».
Lời mô tả gợi ý : Mộc Tinh có thể là thú dữ, chủyếu là Hổ. « Dân phải lập đền thờ, hàng năm đến ngày 30 tháng chạp, theo lệ phải mang người sống tới nộp, mới được yên ổn. Dân thường gọi là thần Xương Cuồng ». Người dịch chú thích : Xương Cuồng có nghĩa là hành động một cách bạo ngược, tàn ác, không thể trấn áp được 1. « Kịp tới khi Tần Thủy Hoàng bổ Nhâm Hiêu (còn gọi là Nhâm Ngao)làm huyện lệnh, muốn bỏ tệ ấy đi. Thần Xương Cuồng tức giận vật chết Hiêu, vì thế về sau lại phải phụng thờ cẩn thận ».
Đến đời Đinh Tiên Hoàng mới có pháp sư diệt được yêu quái.
Nhưng có nơi vẫn còn giữ cổ tục, như Phạm Đình Hổ kể lại trong bài Thần Hổ « Làng Ngọc Cục ở huyện ta (Đường An, Hải Dương, ĐT ghi ) khi xưa truyền rằng vẫn thờ yêu hổ phải bắt người làm việc hy sinh để cúng (…) Đó cũng như cái tục Nhâm Ngao tế thần Xương Cuồng vậy. Từ năm Canh Thân 1800 trở về sau thói ấy mới bỏ » 2.
Nhân cái tên lạ, ông Ba Mươi để gọi cọp, khi so sánh hai văn bản, ta có cơ sở để đặt giả thuyết : Xương Cuồng là Thần Hổ ; và Mộc Tinh là hình ảnh cọp, tai họa của rừng núi, cũng như Ngư Tinh là tai họa của sông biển, và Hồ Tinh (chồn cáo) là tai họa của đồng bằng.
Đây là một cách « đọc » truyền thuyết, cũng như ngày nay chúng ta hiểu truyện Sơn Tinh Thủy Tinh không phải là việc cưới hỏi, mà là việc chống nạn lũ lụt hằng năm, và xa hơn nữa việc trị thủy nói chung.
Việc đồng hóa cọp với cây cối cũng dễ hiểu : cọp là hình ảnh bí hiểm của rừng núi, hòa mình với cỏ cây, xuất hiện bất thường về đêm, có nhiều linh khiếu, khiến con người đồng hóa rừng thiêng với hùm thiêng. Mộc Tinh là ẩn dụ một thiên nhiên chưa đươc chế ngự.
Và vào thời Hồng Bàng người Văn Lang đã biết tránh cọp bằng cách dựng nhà sàn, « bắc gỗ làm nhà để tránh hổ sói » (LNCQ, chuyện Họ Hồng Bàng, sđd. tr. 24).
Một số di chỉ thời Đông Sơn, những lưỡi giáo tìm thấy ở núi Voi hay Sơn Tây có khắc hình cọp. Hay những tượng nhỏ bằng đồng thau tạc hình hổ sinh động.
Bên cạnh truyện Mộc Tinh là cổ tích cơ bản, tiếp theo người đời sau, cuối đời Lê, còn thêm truyện Trành Quỷ Hiển Linh, là chuyện Ma Trành : linh hồn người bị hổ ăn thịt biến thành tinh của hổ, thường dẫn đường cho hổ đi bắt người, khi có dịp lại hiện ra thành hình người (sđd. tr.125). Chuyện Ma Trành sẽ gợi ý cho người đời sau biết những tiểu thuyết đường rừng như Thần Hổ, 1937, Ai hát giữa rừng khuya,1942, của Tchya hay Truyện Đường Rừng, 1940 của Lan Khai.
Lĩnh Nam Chích Quáithuật chuyện Nhâm Ngao bị thần Xương Cuồng tức giận vật chết. So với chính sử, Đại Việt sử ký Toàn Thư, phần ngoại kỷ, kỷ nhà Thục, kể lại rằng Nhâm Ngao - tướng nhà Tần - cùng với Triệu Đà đem quân tấn công nước Âu Lạc của An Dương Vương. Năm 210 trước Tây Lịch, Triệu Đà xâm lấn bằng đường bộ, bị thua. Nhâm Ngao đem thủy quân đóng ở sông Tiểu Giang, tức sông Thiên Đức (sông Đuống) « phạm thổ thần, bị bệnh phải rút về », hai năm sau bệnh nặng, giao quyền lại cho Triệu Đà và khuyên Đà tự lập, rồi chết.
Toàn thư cho rằng Nhâm Ngao phạm thổ thần còn Lĩnh Nam Chích Quái cho rằng bị thần Xương Cuồng tức giận vật chết. Lời lẽ xê xích, nhưng nội dung chính yểu thì giống nhau.
Dĩ nhiên đây là chuyện người xưa mê tín theo con mắt ngày nay. Điều cần ghi nhận là người xưa tin rằng thần Xương Cuồng là thổ thần có nhiều quyền năng, có thể vật chết người, kể cả một ông đại tướng nguyên soái. Và chúng ta có lý do để đặt câu hỏi : thần Xương Cuồng ấy phải chăng là Thần Hổ mà người Văn Lang sợ hãi và trọng vọng, làm lễ tế hằng năm vào ngày Ba Mươi Tết ?
Rồi phải chăng từ phong tục cổ sơ này, đã có vào thời các vua Hùng, mà con hổ, con cọp được gọi là Ông Ba Mươi  cho đến ngày nay?
Đặng Tiến
Paris, 15.01.2010

 
1 Lĩnh Nam Chích Quái, tr.39-41, nxb Văn Hóa, 1960.
2 Vũ Trung Tùy Bút, tr.146, nxb Văn Học, 1972.

"Nghề hót phân trên đời là nhất!"

Trích từ sách Kỹ thuật người An Nam
Phụ nữ thu phân tại nhà (Sách Kỹ thuật người An Nam tr.13)
Blog người hiếu cổ - Nói đến làng Cổ Nhuế xưa kia, có câu một số câu như sau: 
"Thanh niên Cổ Nhuế xin thề
Chưa đầy hai sọt chưa về quê hương" 
(ca dao)
"Đào Nhật Tân, phân Cổ Nhuế" 
(tục ngữ)
"Anh bước đi đầu không ngoảnh lại
Sau lưng anh cứt đái văng đầy”
(Nguyễn Đình Thi)

Ngày nay, Cổ Nhuế là vùng đất kinh tế phát triển, đời sống người dân cao, "nghề truyền thống" của làng là hót phân đã trở thành dĩ vãng. Tuy nhiên, khi hồi tưởng lại quá khứ, chúng ta vẫn thấy được những nét đặc sắc văn hóa đáng trân trọng. Nhân nhàn rỗi xem sách "Kỹ thuật người An Nam" của Henri Oger, xin đưa hình ảnh những người đi hót phân được ghi lại trong sách để chúng ta cùng hình dung lại công việc một thời của người xưa, đồng thời tôi có tìm được một truyện ngắn của nhà văn Nguyễn Huy Thiệp khá hay để cùng hình dung một cách cụ thể hơn về hoạt động buôn bán "thứ của quý" này.

CHUYỆN ÔNG MÓNG - Nguyễn Huy Thiệp xuân 2011
"Người lấy phân" - tr.34
"Mấy năm trước nghe nói ở ngoại thành có một chợ bán phân nổi tiếng, "độc nhất vô nhị " nên tôi tò mò đến xem

Chợ phân họp chừng một giờ đồng hồ từ 3 giờ sáng đến 4 giờ sáng ở ngay bên đường đi Sơn Tây. Đây là vùng trồng rau, trồng cà nổi tiếng. Giống cà pháo, cà bát rất hợp với việc bón phân tươi, nhất là phân người. Người ta cũng dùng phân để bón cho lúa, nhưng phân bón cho lúa phải được ủ cho mục ra, cho chín phân. Thế nào là ủ phân ? Phân tươi có nhiều loại : phân trâu bò, phân lợn, phân gà (gọi chung là phân chuồng), phân người (còn gọi là phân bắc) nhưng được ưa quý hơn cả là phân lợn, phân gà. Phân lợn quý vì nó mát, có thể dùng ngay, bón được ngay cho cây, mà cây nào cũng hợp. Phân gà cũng quý nhưng phân gà nóng, chỉ hợp bón cho cây ớt mà thôi. Riêng phân người (phân bắc) có lẽ bởi có nhiều đạm, nhiều chất khó phân huỷ nên bón trực tiếp thì cây xót, chết ngay. Riêng chỉ cây cà là chịu đựng được, lại hợp với việc bón loại phân này. Nhìn chung, tất cả các loại phân đều phải được ủ thì mới nên dùng. Người ta đào một cái hố ở ruộng, chất phân vào cùng với tro, trấu, rồi trát bùn non trộn với rơm bên ngoài, trông như một cái mả, để đấy chừng dăm bữa nửa tháng cho ngấu dần. Phân được ủ chín, cứ thế mục ra, oải ra. Những con dòi ăn hết phân cũng chết đi, bản thân nó cũng hoá thành phân.

Khi tôi đến thăm chợ phân thì chợ đang họp. Đây là chợ phân tươi, hoàn toàn không có phân ủ (phân chín) không có phân xanh (phân làm từ các loại lá cây) hay phân hoá học. Cũng rất ít có phân chuồng, tức là phân lợn, phân gà hay phân trâu bò. Tất cả đều là phân người.


Phân người được cho vào những thùng gò bằng tôn như thùng gánh nước. Cũng có một số người dùng thùng gỗ hoặc cho phân vào sọt (sọt được lót bằng bao ni-lông). Có lẽ phần lớn phân ở đây đều được lấy từ các nhà xí công cộng trong thành phố ra, nhiều thùng phân còn thấy lẫn cả giấy vở học sinh hay giấy báo.


Chợ phân không đông, chỉ có chừng hơn ba chục người vừa mua vừa bán. Hình như họ vốn đã quen biết nhau và khá thuộc " mặt hàng " của nhau nên việc mua bán thoả thuận cũng nhạnh Dưới ánh đèn cao áp tựa như ánh trăng và không khí hơi lạnh buốt, chợ phân cũng có phần nào giấu đi được sự bẩn thỉu, sự nghèo hèn, lam lũ và cần lao.


Những người bán phân đều bịt mặt hay đeo khẩu trang. Tất cả đều bán mua, mua bán một cách âm thầm chịu đựng, ít nhất đấy cũng là cảm giác ban đầu của tội Không có ai nói to tiếng hoặc mặc cả ráo riết như ở các chợ khác, chỉ trừ có mỗi một người, người này có vẻ như " ông chủ chợ ". Ông ta khoảng 60 tuổi, dáng người thấp đậm, đầu húi cua, mắt trố, quai hàm bạnh, ngực nở nang, chân tay rắn chắc. Ông ta không đeo khẩu trang hay bịt mặt, hoàn toàn chẳng có vẻ gì sợ hãi hay ghê tởm khi phải tiếp xúc, đụng chạm với các thùng phân bẩn thỉu và các dụng cụ dơ dáy ở đây. Tôi để ý thấy ông ta không mua, cũng không bán nhưng ông ta đi đi lại lại, nhắc nhở mọi người, xem xét, đánh giá từng thùng phân, bông đùa, góp ý cho những ai còn đang băn khoăn hay lưỡng lự. Ông ta khá linh hoạt, lanh lẹn. Sự linh hoạt của ông ta khiến cho phiên chợ sôi nổi hẳn lên nhưng cũng có vẻ gì khá bất nhẫn. Ông ta như một vị nhạc trưởng, như người giữ nhịp điệu cho cả phiên chợ quái đản này.


Có mấy người đôi co về hai sọt phân của một phụ nữ. Người phụ nữ này ăn mặc quần áo như một nhân viên Công ti vệ sinh. Người phụ nữ cầu cứu "ông chủ chợ " :


- Bác Móng ! Phân này của cháu mà chê là chua thì có ức không ?


Ông Móng (tức " ông chủ chợ ") đến gần xem xét. Ông ta dùng một cái gắp phân bằng cật tre, trông hơi giống một cái đũa cả sục sâu vào đáy sọt phân rồi rút ra, đưa lên mũi ngửi. Một con nhặng xanh bay nhoằng ở ngay trước mặt ông ta. Ông ta lùi một bước, quắc mắt, chuyển cái gắp phân từ tay trái sang tay phải rồi ước lượng đón đầu đường bay của con nhặng xanh, đập véo một cái vào không trung. Ông ta hô lớn :

- Chết này !

Sau tiếng hô người ta thấy con nhặng xanh ngã vật xuống ở giữa sọt phân. Ông ta bình thản bảo người mua hàng :

- Phân tốt đấy, không chua đâu ! Chắc hố xí nhà này gần chỗ làm đậu phụ nên có nước đỗ tương lẫn vào !

Người phụ nữ bảo :

- Vâng đúng ! Trong phân vẫn còn vỏ đỗ tương đây này !

Ông Móng bảo :

- Phân của mày hôm nay không đậm như phân hôm qua ! Nát nhẽo nát nhèo... Thôi thì giảm một giá...

Người phụ nữ bảo :

- Cháu gánh kẽo kẹt suốt từ cửa ngoài ô đến đây, nặng ơi là nặng. . .

Ông Móng bảo :

- Cho chết ! Ai bảo tham múc nhiều nước vào. . . Mày phải chắt cho kiệt nước đi thì phân mới ngon !

Ở cuối chợ có ai trút hai thùng phân sang hai cái thúng sơn bị đổ ra đường. Ông Móng quát :

- Vét ngay ! Vét cho thật sạch ! Ban ngày người ta mà thấy phân dây ra đường là không còn để cho họp chợ nữa đâu !


Người bán hàng vét phân bằng một dụng cụ làm bằng tôn hơi giống như một cái thìa xúp to, có cán dài, cái này cũng gọi là móng. Tuy đã vét sạch nhưng trên mặt đường nhựa vẫn lầy nhầy một lớp váng nước bu đầy ruồi nhặng. Ông Móng đi đến, bắt người kia phải đi múc nước từ một con mương gần đấy lên để rửa đường.


Một thanh niên trẻ, người gầy nhẳng đẩy một xe phên đi đến. Đây là chiếc xe vẫn dùng để gom rác nhưng được sửa đi để đựng phận Những người không bán được hàng (ế hàng) hoặc hàng xấu (tức là phân lõng bõng toàn nước hay nhiều dòi quá) đều trút cả vào xe cho anh tạ Anh ta mua hết nhưng đều với giá rẻ, mọi người gọi là giá bèo, giá vứt đi, giá hết chợ. Ông Móng và anh này có vẻ thân nhạu Ông Móng khen :

- Làm được nhà, lấy được vợ chỉ nhờ vào phân ! Thế là nhất !

Anh ta cười, vẻ mãn nguyện, lấy thuốc lá ra mời ông Móng. Hai người đứng hút thuốc lá, bàn tán những chuyện gì đó không rõ nhưng nghe loáng thoáng có câu " nhất nghệ tinh, nhất thân vinh " với " sinh ư nghệ, tử ư nghệ ". . . 
 
"Lấy phân" - tr.307
Phía cánh đồng ngoại thành bóng tối lễnh loãng dần, bắt đầu mờ mờ nhìn rõ mặt người. Những tia mặt trời đầu tiên hân hoan báo hiệu một ngày mới đang đến dần. Những tiếng rung động đầu tiên rất khẽ rồi cứ thế lan toả ra, lớn dần lên, liên hoàn ầm ào như có muôn ngàn tiếng sóng vỗ, như có muôn ngàn tiếng chim đập cánh, như rùng rùng tiếng dậm chân của cả đoàn người. Tiếng còi xe lửa, tiếng còi ô-tô lảnh lót vang lện Thành phố bắt đầu cựa mình thức dậy như một con mãnh thú to lớn, như một tên khổng lồ vĩ đại có rất nhiều tham vọng phàm tục, có rất nhiều ước mơ táo bạo cùng với năng lực ẩn tàng. Hắn vừa chậm rãi, lại nhanh nhẹn, vừa ngáp ngủ, lại tỉnh thức. Người ta không thể lường được một ngày của hắn rồi sẽ thế nào, hắn sẽ làm gì, hắn sẽ bắt đầu bữa tiệc thịt người ngay tức khắc hay sẽ hào hiệp vung tay gia ân rải bạc vàng lên khắp chốn cùng nơi như một đế vượng Thành phố ! Đấy là bao nhiêu nỗi kinh hoàng, bao nhiêu niềm vui hoan lạc ! Thành phố ! Ở đấy có cả biết bao cảnh giới thiên đường và sự đoạ đầy trong tầng tầng địa ngục !

Những người họp chợ phân tản đi rất nhanh, loáng cái chẳng thấy còn một người nào, cứ như là chui xuống đất. Ông Móng đi dọc cái chợ không còn một ai xem xét. Không biết ông ta lấy đâu ra một cái chổi nan dài, chỗ nào còn rớt lại ít phân thì ông ta dùng chổi rấp ngay vào bên rệ đường như để phi tạng Xong xuôi ông ta bước xuống con mương gần đấy rửa tay rồi lững thững đi vào quán phở vừa mới mở cửa bên đường. Ở đây ông được đón tiếp như một khách hàng quen biết thường xuyên đặc biệt. Chủ quán biết rõ ông thích ăn gì và ăn thế nào.


Sau lần tôi đến chợ phân, tôi đã làm quen với ông Móng, tìm cách trò chuyện với ông ta nhưng ông ta kín như bựng Tôi cũng đã nghe thiên hạ kể về ông ta nhiều chuyện nhưng đều " bán tín bán nghi ", chẳng biết thực hư thế nào.


Bốn chục năm trước, Móng là một thanh niên nông thôn chất phác. Anh ta sống ở một làng quê ven thành. Lớn lên Móng đi lính, đã từng sang Lào và Campuchia. Cũng có người nói hồi trẻ Móng khá tài hoa, cầm, kỳ, thi, hoạ đủ mùi.


Một dạo, đóng quân ở một vùng xa, Móng có làm quen và yêu một cô gái Chặm Cô gái tóc xoăn, da nâu, nồng nàn như lửa. Anh lính nhà quê chất phác si tình như bị hớp hồn. Họ kéo nhau vào rừng trước một pho tượng đá cổ tạc những hình thù kỳ dị mà mãi về sau Móng được nghe giải thích là tượng linga. Móng đòi cô gái trao thận Cô gái bắt Móng phải thề chung thuỷ với cộ Nửa đùa nửa thật, Móng thề :

- Nếu tôi không chung thuỷ với em thì suốt đời tôi đi hót cứt !

Cô gái vui vẻ, tự nguyện trao thận Sau đó Móng đã chuyển đi nơi khác. Anh ta quên ngay cô gái người Chặm Cuộc đời chinh chiến giang hồ bôn ba khắp nẻo, sau này Móng cũng đã nhiều lần gặp gỡ không ít những cô gái khác. Hết chiến tranh trở về quê quán, giống như nhiều người đàn ông có giáo dục và lương thiện khác đã qua thử thách, Móng lấy một cô gái làng, lập gia đình và sống cần cù, gương mẫu.


Tôi nghe kể nhưng không tin lắm vào câu chuyện trện Tôi hỏi ông Móng và biết ông làm việc ở chợ phân này mấy chục năm nay tình nguyện và không vụ lợi. Nhiều người cũng đã xác nhận việc ấy với tội Không có lẽ ông lại có tình yêu và lòng say mê với phân như khối người dở hơi chúng ta vẫn say mê văn chương nghệ thuật, toán học, chính trị hay đồ cổ ? Tôi có mang chuyện này trao đổi với một nhà sự Ông bảo :


- Sám hối vẫn thường là một nhu cầu tâm linh của người ta khi đã về già. Thế nào gọi là sám ? Thế nào gọi là hối ? Sám có nghĩa là ăn năn về những lỗi lầm mình đã phạm từ trước. Các nghiệp ác, các tội ngu si mê chấp, kiêu ngạo khinh mạn. . . hoàn toàn xin ăn năn hối lỗi, từ nay về sau không còn gây ra nữa. Thế gọi là sám. Hối có nghĩa là hối cải những điều lỗi có thể phạm phải sau này. Các nghiệp ác, các tội ngu mê, kiêu ngạo, ngông cuồng, ghen ghét. . . đã được giác ngộ sẽ phải dứt bỏ hẳn, không gây ra nữa. Thế gọi là hối, gọi chung là sám hối. Kẻ phàm phu mê chấp chỉ biết ăn năn những tội lỗi đã phạm phải từ trước mà không biết hối cải những tội lỗi về sau của mình thế là tội trước chưa diệt, lỗi sau lại sinh, vậy chưa thể gọi là sám hối được. Mỗi một thiện trí thức phải nung nấu lắm !


Tôi ngồi nghe, không hoàn toàn bằng lòng với cách giải thích như trên vì thấy ông Móng không có vẻ gì đang là người ăn năn sám hối. Tôi cũng đã dò hỏi về " linga " và các quan niệm về quả báo của người xựa Trong bái vật tổ - tôn giáo nguyên thuỷ (nhiều người coi là tà giáo) - hình tượng âm vật, dương vật giao cấu cũng khá phổ biến, chưa nghe nói vì báng bổ mà đến nỗi phải rước tai hoạ gì. Chắc chắn không hề có chuyện mê tín ở đậy Tiếp xúc với ông Móng, tôi thấy ông là người vô thần, cũng khá hồn nhiên chất phác yêu đời. Tôi băn khoăn quá, giải thích chuyện này cho thật thấu đáo kể cũng đau đầu.


- Không tôn giáo, không chính trị, không vụ lợi, không "sếch-xy " - Ông Móng bảo tôi - Nghề hót phân trên đời là nhất ! 

 Truyện dẫn từ: tnxm.net"

Yếu tố sex trong ca dao Việt Nam

Tình Dục là một khía cạnh văn hóa, một sắc thái rất đặc trưng, một vấn đề rất đời thường và luôn luôn hiện diện trong cuộc sống của con người. Nghiên cứu sâu về Tình Dục thì không thể bỏ qua khía cạnh văn hóa này, vì ở đó nó thể hiện được quan niệm của mỗi dân tộc, mổi sắc dân thậm chí là từng vùng nhỏ địa lý, tình dục dược nói đến trong các tác phẫn văn học nổi tiếng như Truyện Kiều, Cung Oán Ngâm Khúc, Bích Câu Kỳ Ngộ, Phan Trần, Hoa Tiên... và cũng là một đề tài vô cùng phong phú trong ca dao. Ca dao VN là một loại văn chương bình dân có một sức mô tả rất sinh động tất cả nếp sống, sinh hoạt, phong tục tập quán xã hội của đại đa số dân chúng, nó được thể hiện qua lối nói rất giản dị, thẳng thắng, trung thực không màu mè, chải chuốt,là một kho tàng bất tận để khai thác trong nhiều lãnh vực khác. Khảo sát về mặt tình dục trong ca dao VN mới thấy được những nhận xét thật uyên bác rất tinh tế của người nông dân, mới thấy được sự mô tả tâm tư, tình cảm, sự rung động về tình yêu, sự khao khát và nỗi đam mê về thân xác là rất thật, rất đời thường. Bộ mặt tình dục trong loại văn chương bình dân thể hiện theo đúng nghĩa đen lẫn nghĩa bóng của mỗi chữ, mỗi câu nói điều đó có thể làm cho một số nhà" đạo đức " lên án là dâm ô, tục tĩu, những chuyện không nên nói nơi chỗ đông ngườị Sự thật là: dù có chỉ trích thế nào đi nữa thì nó vẫn đã tồn tại và sẽ tồn tại vì nó là ý thức châm biếm, óc hài hước của dân tộc, của một lớp người bình dân trong suốt lịch sử tồn tạị


Hình vẽ sự hình thành âm dương
Âm dương thành hình đồ
Hôm qua lên núi hái chè
Gặp thằng phải gió nó đè em ra
Em lạy mà nó chẳng tha
Nó đè nó nhét cái mả cha nó vào!

Lại có câu:

Văn chương chữ nghỉa bề bề
Thần L.. ám ảnh mà mê mẩn đời

Hóa ra Thần L.. chi phối cả cuộc sống, bởi vậy không lạ khi người Champa đem hai "cái ấy" Yoni và Linga đễ thờ phụng. Ngày xưa người Việt cũng như người Tàu đều có khuynh hướng sùng bái tính dục bao gồm sự sùng bái cơ quan sinh dục, sùng bái chuyện sinh nở, sùng bái vấn đề tính giaọ Cho nên trong ca dao người ta nói nhiều đến chuyện nàỵ Ông Đổng, bà Banh có thể xem là biểu tượng về tình dục trong ca dao

Có chồng từ thuở mười lăm.
Chồng chê tôi nhỏ không nằm cùng tôị
Đến chừng mười chín đôi mươị
Tôi ngủ dưới đất chàng lôi lên giường
Một rằng thương, hai rằng thương
Có bốn cẳng giường gãy một còn ba!

Hết đồng anh lại pha chì
Anh hàn chín tháng cô mình thụ thai
Sinh ra được thằng bé con trai
Về sau, giống bố gặp ai nó cũng hàn.

Tròng trành như nón không quai
Như thuyền không lái như ai không chồng

Thôi thôi, tôi van câu rằng đừng
Tôi lạy cậu rằng đừng
Tuổi tôi còn bé chưa từng nguyệt hoa
Tôi về gọi chị tôi ra
Chi tôi đã lớn nguyệt hoa đã từng

Em đừng khinh quân tử nhỏ nhoi
Con lươn bao lớn nó xoi lủng bờ.

Em ơi đừng thấy nhỏ mà rầu
Con ong bây lớn đốt cái bầu cù queo!

Em ơi đừng thấy nhỏ mà khinh
Con thằn lằn bây lớn ôm cây cột đình tổ cha! Chú ý: Tổ cha: tiếng địa phương có nghĩa là rất lớn

Em đừng chê anh nhỏ mà lầm
Hòn đá đập nằm dưới,
hòn đá cầm nằm trên
Chẳng thà nó nhỏ mà dài
Còn hơn chụp bụp nữa ngoài nữa trong
(Chụp bụp nghĩa là to mà ngắn)

Chẳng thà nó nhỏ mà cong
Còn hơn tổ bố nửa trong nửa ngoài

Cồng cộc bắt cá bầu eo
Chi chê tôi bé, tôi trèo chị coi

Câu đố:
C.. ba chia đút vô l.. ngoáy
Chãy máu ra lè lưởi liếm liền

Câu đố:
Ngất nga ngất ngưỡng tựa cần câu
Tay chân không có miệng trên đầu

Câu đố:
Đi nhai, đứng ngậm ngồi cười.

L.. này L.. chẳng sợ ai
Sợ thằng say rượu đ... dai đau L...

C .. to lo chi đói
Cơm nhà L..vợ
Sờ L..béo, đéo l... gầy
Vú nẫy L.. sưng
Ví phấn với vôi
Ví L.. con đĩ với môi thợ kèn

Bà ba đi chợ đường quai
Vừa đi vừa tỉa lá khoai bưng L..

Bà ba đi chợ đường cồn
Vừa đi vừa tỉa lông L.. bán trăm

Trên trời có ông sao Rua
L.. em tua tủa có thua chi nào.

Lông tơ lún phún mép L..
Lăn tăng con cá diếc lòn vào lòn ra
Cây trời có cái chỉa ba
Thương em thì hãy đem tra nó vào
Trèo lên cây khế giữa ngày
Váy thì trụt mất, lưỡi cày thò ra
Lưỡi cày ba góc chẻ ba
Muốn đem đòn gánh mà tra lưỡi cày

Trời mưa trời gió đùng đùng
Cả bầy C.. lọ mang tơi đi tìm

Cơm ăn mỗi bửa mỗi niêu
Tội gì bắt ốc cho rêu bám L..

Ví ví von von
Anh cho một cái, cỏng con về nhà

Thấy L.. lạ như quạ quạ thấy gà con
Trong nhà đã có đồ chơi
Song le còn muốn của người thêm xinh

Kim mà đâm thịt thì đau
Thịt mà đâm thịt nhớ nhau suốt đời

C.. vạy thì ngoáy L.. già
Ngoáy lui ngoáy tới chết cha L.. già

C.. vạy thì ngoáy l.. già
Ngoáy lui ngoáy tới nó ra nước nhờn

Gió nam non thổi lòn hang chuột
Đ.. em rồi, đ.. nữa được không em

Nhiều phân tốt lúa
Nhiều lụa tốt L..

L... đẹp vì lụa Lúa tốt vì phân.

Vú em như quả mướp hương
Tay anh phật thủ đôi đường gặp nhau

Hơn nhau tấm áo manh quần
Cởi ra bóc trần ai cũng như ai

Lở khi ăn miếng trầu xanh
Đêm lo ngày sợ mặt xanh như chàm

L.. vàng, bẹn ngọc, đóc san hô
Chóc ngóc như đóc mồ côi

Con gái mười bảy mười ba
Đêm nằm với mẹ, khóc la đòi chồng
mẹ giận mẹ phát ngang hông:
"Đồ con chết chủ đòi chồng thâu đêm"! Chú ý: Đồ chết chủ, địa phương ngữ, có nghĩa là mất
dạy. Phát: đánh vào người bằng bàn tay xòe (phách)

Đêm bảy ngày ba vô ra không kể
Bán dạ tam bôi tửu
Bình minh sổ trản trà
Nhất nguyệt dâm nhất độ
Lương y bất đáo gia.
(Đêm tối uống vài ba chén rượu
Sáng ra lót dạ mấy chung trà
Một lần một tháng e vừa đủ
Chắc chắn lương y khỏi tới nhà)

Bảy lượt mổi ngày đòi má nó
Đương nhiên y sĩ phải xông nhà ???

Cha chết không lo, lo trâu méo L...

Áo xông hơi của chàng vắt mắc
Đêm em nằm em đắp lấy hơi
Trời mưa gió rét kìn kìn
Đắp đôi dãi yếm hơn nghìn chăn bông

Chuột kêu chút chít trong rương
Anh đi cho khéo đụng giường mẹ la
Chú ý: Ngày xưa cái giường của người đàn bà nhà quê là loại giường chỏng đóng bằng tre già, lâu ngày thành xiu lỏng, đụng vào đó kêu cót két, giống như tiếng chuột kêu chút chít. Có lẽ bà mẹ của cô gái kia đã một lần chợt thức giấc vì nghe tiếng chuột kêu, hoặc nghe tiếng giường kêu

Mẹ ơi con muốn lấy chồng
Con ơi mẹ cũng một lòng như con

Cô Ba, cô Bốn lấy chồng
Cô Năm ở lại giật mồng tăng tăng

Xót lòng mẹ góa con côi
Kiếm ăn lần hồi L.. lớn bằng mo

Áo dài chẳng nệ quần thưa
Bảy mươi có của cũng vừa mười lăm

Em ham giàu em lấy thằng bé tí ti
Làng trên xã dưới thiếu gì trai tơ

Ngó lên gò mả, Ngó xuống gò găng
Gặp chị bẻ măng, Trật quần bắt kiến
Thấy tôi hay liếng, Chị bảo bắt giùm
Tôi bắt một đổi, Thấy cái đùm đen thui!

Gió nam non thổi lòn hang cóc
Phận em nghèo nên mồng đóc khô rang

Gió nam tốc dải yếm đào
Sao anh trông thấy oán anh không vào thắp hương

Anh về sương gió lạnh lùng
Ở đây chung gối chung mùng với em

Anh về để áo lại đây
Đêm khuya em đắp, kẻo gió tây lạnh lùng

Đêm đông trời lạnh như đồng
Mượn chi thì cho mượn, mượn chồng thì không
Làm thân con gái phải lo
Mùa đông rét mướt ai cho mượn chồng

Thương em đút C. qua rào
Không thương rút lại gai quào rách dạ
Thương em đút C. qua rào
Tai nghe chó sủa, rút lại nên bị gai cào xướt dạ

Trăng lên đỉnh núi mu rùa
Cho anh đ. chịu đến mùa anh trả khoai

Vú em như cái chủm cau
Cho anh bóp cái có đau anh đền

Vú em đang giá một tiền
Cho anh bóp cái anh đền năm quan

Nứng L ... mà cạ cây vông
Cạ lên cạ xuống gai châm đầy l...

Vân Tiên ngồi dựa gốc môn
Chờ cho trăng lặn sờ L. Nguyệt Nga
Nguyện Nga biết ý không la
Vân Tiên thấy vậy sờ ba bốn lần

Mười ba mười bốn lum săng
Mười lăm mưới sáu lông quăm mép L.
Mười bảy mười tám thẹn thùng
Hai mươi mười chín như khùng như điên

Ra đường con mắt ngó nghiêng
Về nhà chui chốn buồng riêng vê mồng

Dậm chân xuống đất cái đùng
Vỗ L ...cái phạch chào anh hùng đến đây!

Dậm chân xuống đất kêu bon
Vọc C. cho cứng chào con nứng L.
Bà Đội cho chí bà Cai
Bà nào hay đố chữ cũng váy ngoài L.. trong

Nứng l... đỏ mặt Nứng C... đỏ lổ tai
 
Sướng lỗ khu su con mắt (lỗ khu tiếng Huế là hậu môn)

Cực chi da diếc diếc da
Áo em hai vạc trải ra anh nằm

Nứng C. máu Cái L. què

Trăng lên khuất bóng cây dừa
Làm thân con gái phải chừa đi đêm!

Thương em không dám vô nhà
Đi qua đi lại hỏi: "gà bán không?"

Em là con gái đêm hôm
Anh đừng lui tới mà nam nồm tội em!

Chú ý: Nam, nồm: gió nam, gió nồm, đây ý nói tiếng đồn xấu, tiếng chì tiếng bấc.

Thương nhau nào ngại sang giàu
Tối lửa tắt đèn nhà ngói như nhà tranh

Chị kia lớn mổng cao mu
Lại đây cho tôi gởi con cu trọc đầu
Cu tôi vừa mới đâm lông
Cho mượn cái lồng nhốt đỡ vài đêm

Cu tui ăn đậu ăn mè
Ăn chi của chị mà chị đè cu tui
Tui chưa trách chị mà chị lại trách tui
Con chị đi lên đi xuống nên con tui mang bầu

Con chị mang chín tháng không rầu
Con tui mang hai hòn dái nặng đầu quanh năm

Ôi O bán cồm hai lu
Đi mô tui gởi con cu về cùng
Cu tui tui ấp tui bồng
Chớ bỏ vào lồng mà ốm cu tui
(Tiếng Huế goi O là cô )

Thấy đua, thì cũng đua đòi
Thấy tỉa lông nách cũng xoi lông L..

Tham giàu lấy phải thằng Ngô
Đêm nằm như thể cành khô đâm vào

Tiếc thay con gái mười ba
Liều thân mà lấy ông già tám mươi
Tiếc thay con ngựa bạch mà thắt cái dây cương thừng
Tiếc thay con người ấy thế ma đi ôm lưng cái lão già

Tiếc thay cây mía ngọt lại sâu
Tiếc con gái tốt mà cái bím bầu không lông

Hởi cô mặc yếm hoa tầm
Chồng cô đi lính cô nằm với ai
Cô nằm cô đẻ thằng bé con trai
Chồng cô về hỏi: Con ai thế này ?
Con tôi đi kiếm về đây
Có cho nó gọi bằng thầy thì cho

Hởi cô cô yếm thắm bùa đeo
Chồng cô cô bỏ cô theo chồng người

Hỡi nàng má đỏ hồng hồng
Cổ cao, miệng rộng, lông L. vắt vai

Hát cho chó cắn, bò lồng
Hát cho con gái bỏ chồng mà theo

Rung rinh nước chãy trên đèo
Bà già lật đật mua heo cưới chồng

Ở đây có đứa lấy trai
Cho nên trời hạn nắng hoài không mưa

Ông già ông đội nón cời
Ông ve con nít ông trời đánh ông
Ông ơi tôi chẳng lấy đâu
Ông đừng cạo mặt nhỗ râu tốn tiền

Tiện đây mận hỏi thăm đào
Vườn hồng đã có kẻ vào hay chưả
Mận hỏi thì đào xin thưa
Vườn hồng có lối nhưng chưa ai vào

Khứ nhật ngã đề xuân nhất tự
Hà nhân lai đáo phá thành thung
Lang quân bất thức lang quân hận
Tọa tất xuân đề ngọa tất thung

Ngày ấy ta đề "xuân" một chữ
Cớ sao ai lại phá thành "thung"
Bởi chàng không rõ nên chàng giận
Ngồi ắt là "xuân", nằm ắt "thung"

Ngó vô đám bắp khô bao
Muốn vô mà bẻ người ta rào tứ tung
Một mai trống thủng còn vành
Lấy da trâu bịt lại cũng lành như xưa

Đau bụng, lấy bụng mà chườm
Nhược bằng không khỏi, hắc hương với gừng

Em ơi! Trống lũng khó hàn
Dây dùng khó đứt,
người khôn khó tìm

Nước chãy hòn đá lăn cù
Con chị đã vậy thì bèn con em!

Rộng đồng thì gió thổi luôn
Khi vui cô chị khi buồn cô em

Mít ngon anh đánh cả xơ
Chị đẹp em đẹp anh sờ cả đôi

Gió đưa bụi chuối sau hè
Đã ve con chị lại tò vè con em!

Trông chồng mà chẳng thấy chồng
Để em vắng lạnh phòng không một mình

Buồn tình cha chả buồn tình
Biết ai lẻ bạn cho mình kết đôi

Quét nhà long mốt long hai
Cha mẹ đi vắng dẫn trai vô nhà
Chú ý: long mốt long hai: làm dối, quét một chổi sót một chổị Đây ý nói làm thì vụng về, chỉ giỏi đường trai gáị

Chàng vông mà đậm lúa lép
Rựa lụt mà cắt dép da
Trai tơ mà lấy vợ già
Nhai cơm mà sú thưa:"bà nuốt đi"!
Chú ý: chàng vông: chàng bằng gỗ vông, nhe..

Mèo hoang thì chó cũng hoang
Một chàng ăn trộm gặp nàng nhổ môn
Chú ý: nên hiểu theo nghĩa bóng (gian phu dâm phụ)

Cầm chài mà vải bụi tre
Con gái mười bảy đi ve ông già!

Một vợ mà xử không xong
Còn đòi hai vợ cho cong ... cái xương suờn
Từ nay sống cũng bằng không
Thôi rồi cái kiếp làm chồng làm cha

Cho dù có sống đến già
Cho dù béo tốt cũng là phí toi
Bây giờ pháo đả tịt ngòi
Gia tài còn lại ... một vòi nước trong

Củ lang nấu lộn củ mì
Cháu lấy chồng dì kêu dượng bằng anh

Xứ tôi có núi "Xách Quần"
Lấy ai thì lấy xin đừng lanh chanh
Yêu anh thì giữ lấy anh
Xin đừng ăn tỏi chê hành là hôi

Xách quần chạy ngược chạy xuôi
Chạy mỏi cẳng rồi đứng lại bơ vơ ...

Con gái chơi với con trai
Coi chừng cặp vú như hai sọ dừa

Có chồng thì mặc có chồng
Tôi đi ngủ dạo kiếm ít đồng mua rau!

Một hai họ nói rằng không
Dấu chân ai đứng bờ sông hai người

Mẹ ơi mẹ bạc như gà
Con chưa lẻ mẹ, mẹ đà lẻ con

Ai về nhắn với ông câu
Cá ăn không giật để lâu mất mồi

Cam đường bóc vỏ còn the
Thấy em còn nhỏ anh ve để giành
Chú ý: cam đường: loại cam dại trái nhỏ, thường mọc dưới chân núi, mùi thơm như mùi cam, lá giống lá chanh, cây có gai như gai quít, trái chín ăn rất ngọt, trái xanh thì đắng và hơi chua

Thằn lằn tặc lưỡi mái tranh
Đôi ta còn nhỏ để giành mai sau
Bông thơm nở cạnh bìa rừng
Ong ve chưa dám đậu, lũ bướm đừng lau chau!

Cô tú kẽo kẹt cậu cai
Vợ chồng thuyền chài kẽo kẹt dưới sông

Con chim điểu nó biểu con chim huỳnh
Biểu tổ chức, biểu nhỏ, biểu mình ưng ta
Chim chuyền bụi ớt líu lo
Líu lo bụi ớt đừng cho con chim chuyền

Liệu bề dát được thì đau
Đừng gầy rồi bỏ thế gian họ đào

Trời sinh cái cửa ra vào Sao em lại khoe sắc tài
Độc bình để trống nhành mai anh cắm vào!
Chú ý: đào (đào bới): chưởi rủa

Em ơi anh bịnh nhức dầu
Hay đi đái rát lại đau ngọc hành
Thuốc gì đỏ đỏ xanh xanh
Thì em đi lấy cho anh một liều

Sáng trăng tôi được chồng ai
Tôi cột gốc xoài ai chuộc cho tôi
Ba quan tiền điếu bó mo
Con heo đóng cũi tôi cho chuộc chồng
Chú ý: Đại ý: một gã chuyên "hai hoa" bị gái ngoan bắt được trói lại rồi đánh tiếng. Quan tiền điếu bó mo: tiền đúc bằng đồng điếu, tức loại đồng tiền thau. 1 quan = 10 tiền; 1 tiền = 60 đồng. Đem những đồng tiền bó vào mo cau cho dễ mang.

Những mạng thích chí ngao du
Dạo chơi cho biết xuân thu thế nào
Nhất lê, nhì lựu, ba đào
Nhìn xem thấy cảnh muốn vào bẻ bông.

Thương cha nhớ mẹ có hồi
Thương anh lúc đứng lúc ngồi không an
Ước gì sông rộng một gang
Bắc cầu dãi yếm cho chàng sang chơi
Ước gì dãi yếm em dài
Để em buột lấy những hai anh chàng

Ai ơi chơi lấy kẻo già
Măng mọc có lứa người ta có thì
Chơi xuân kẻo hết xuân đi
Cái già xồng xộc nó thì theo sau

Chẳng ăn chẳng mặc chẳng chơi
Bo bo giử lấy của trời làm chi

Bà già đã tám mươi tư
Ngồi bên cửa sổ viết thư tìm chồng

Trai tơ lấy gái nạ dòng
Cầm bằng uống máu làng trong làng ngoài

Cô kia má đỏ hồng hồng
Cô chửa có chồng, còn đợi chờ ai

Buồng không lần lữa hôm mai
Đầu xanh mấy lúc da mồi tóc sương

Cô kia cắt cỏ bên sông
Cái váy thì cộc, cái lông thì dài
Thuyền chài nó trả quan hai
Thưa rằng chẳng bán để dài quét sân

Cổ tay em trắng lại vừa tròn
Để cho ai gối đến mòn một bên

Nghiêng tai hỏi nhỏ ông Phật rằng:
Trai thanh lấy gái có chồng được không?

Chơi cho thủng trống long bồng
Rồi ra ta sẽ lấy chồng lập nghiêm
Chơi cho thủng trống long chiêng
Rồi ra ta sẽ lập nghiêm lấy chồng

Tính quen chừa chẳng được đâu
Vạ làng, làng bắt mấy trâu mặc làng

Không chồng mà chửa mới ngoan
Có chồng mà chửa thế gian thường tình

Em mất chồng em chẳng có lo
Anh đây mất vợ nằm co một mình

Em đây là gái năm con
Chồng em rộng lượng em còn chơi xuân

Có chồng càng dể chơi ngang
Đẻ ra con thiếp con chàng con ai

Hai tay cầm lấy quả hồng
Quả chát phần chồng, quả chín phần trai

Vú sửa mà bửa làm đôi
Nữa cho con bú, nữa cho trai đem về

Đêm nằm vuốt bụng thở dài
Thương chồng thì ít thương trai thì nhiều

Mày ăn cơm hay ăn khoai
Một bài thơ ấy ngâm hai ba lần

Chử tình đáng giá ngàn vàng
Từ anh chồng củ đến chàng là năm
Còn như yêu trộm nhớ thầm
Họp chợ trên bụng đến trăm con người

Đánh tôi thì tôi chịu đau
Tánh tôi hoa nguyệt chẳng chừa được đâu

Lẳng lơ chết cũng ra ma
Chính chuyên chết cũng chôn ra ngoài đồng
Lẳng lơ cũng chẳng hao mòn
Chính chuyên cũng chẳng sơn son để dành

Cau khô mà bỏ hộp đồng
Mặt mi không xứng làm chồng tau mô

Chưa quen đi lại cho quen
Tuy rằng cửa đóng mà then không gài

Em đang bắc nước sôi sôi
Nghe anh có vợ, quăng nồi đá vung

Gặp nhau từ bến Đại Đồng
Quên nhau hay đã có chồng mà quên

Đêm đêm ngồi dưới bóng trăng
Thương cha nhớ mẹ không bằng thương anh
Đêm nằm lưng chẳng bén giường
Mong cho mau sáng ra đường gặp anh

Thương anh chẳng dám nói ra
Chiều chiều đi dạo vườn hoa khóc ràn
Đêm nằm khô héo lá gan
Mong cho mau sáng ra đàng gặp anh

Ngó lên trăng chúc sao nghiêng
Vui chung với bạn sầu riêng một mình

Ngồi buồn nghĩ càng thấm
Hột cơm tấm cắn làm hai
Rau lang đỡ bữa liễu với mai đừng lìa
Em với anh như khóa với chìa
Đừng để cho ống liệt, khóa với chìa lìa nhau
Chú ý: bụng ống khóa bị hư

Bóng trăng ngã lộn bóng tre
Xin chàng đứng lại mà nghe thiếp thề

Vườn đào, vườn lựu vườn lê
Bởi người lấy nhụy buớm xê ra ngoài

Nghĩ mình lại giận lấy mình
Ao chưa đậu sống rập rình tra khuy
Chú ý: Đậu sống: Ao chưa may đường sống lưng

Đèn hết dầu đèn tắt
Nhang hết vị hết thơm
Anh đừng lên xuống đêm hôm
Để thế gian đàm tiếu tiếng bấc tiếng nồm tội em

Tay cầm cọng lạc bẻ cò
Lòng thương da diết, giả đò làm lơ
Thương sao thương dại thương khờ
Trong nhà không dám khóc, ra bụi bờ khóc than

Hai tay vin lầy đòn rồng
Tội trời con chịu theo chồng con cứ theo
Ra đi cha mắng mẹ rầy
Không đi thì sợ ngoài này anh trông

Con cu bay bổng qua sông
Hỏi thăm cô đó có chồng hay chưả
Có chồng năm ngoái ngày xưa
Năm nay chồng để như chưa có chồng

Đói lòng ăn trái khổ qua
Nuốt vô thì đắng, nhả ra bạn cười
Bạn cười thì mặc bạn cười
Tháng năm đi cưới tháng muời có con

Có con nên phải thua người
Mắc cho con bú, mắc cười với con.

Đang khi lửa tắt cơm sôi
Lợn kêu con khóc chồng đòi tòm tem
Bây giờ lửa đã cháy lên
Lợn no con nín, tòm tem thì tòm * Tục ngữ phong dao (trích "Tục Ngữ Phong Dao" của Nguyễn văn Ngọc) Ca dao

Ba bà đi chợ đường quai,
Vừa đi, vừa tỉa lá khoai bưng L.
Ba bà đi chợ đường cồn
Vừa đi vừa tỉa lông L. bán trăm.

Nước nóng đổ lọ bình vôi
Tôi ngồi tôi nghĩ bố tôi, tôi buồn
Bố tôi dở dại dở khôn,
Say mê cái L. bỏ mẹ con tôị

Câu đố:
Ba bà mà giang chân ra
Một ông đứng giữa mà tra C. vàọ
(ba ông đầu rau và nồi cơm)

Ba ông ngồi ghế
Một ông cậy thế,
Một ông cậy thần
Một ông tần ngần đút C. vào bếp.
(Bể thổi lửa)

Bì bà, bí bạch chân cò
Bí ba bí bách, nằm co giữa giường
Đoạn rồi sờ vú sờ sườn
Sờ sao cho nó đỡ buồn mà thôị
(Bánh dầy)

Bốn chân chong chóng, hai bụng kề nhau
Cắn giữa phau câu, nghiến đi nghiến lại.
(cối xay)

Bốn chân mà lại có đuôi
Đầu như đầu c., lưng lại gù lưng.
(con chuột)

Cái gì vừa quả vừa hoa,
Con nít cũng thích ông già cũng mê
Ra đường dù thấy tràn trề
Ngắm nhìn thì được, mân mê thì đừng
(hai "quả đào tiên").

Cái hoa tim tím, cái nhị điều đều,
Đàn ông đâm nhiều, đàn bà đâm ít.
(cái máy khâu)

Canh một thì trải chiếu ra,
Canh hai bóp vú, canh ba sờ l.
Canh tư thì lắc om sòm
Canh năm cuộn chiếu ẳm con ra về.
(Người kéo vó)

Chấm chấm mút mút đút vào lỗ trôn,
Hai cái lông l. cái dài cái ngắn.
(xỏ kim)

Chưa chết đã đem đi chôn
Chưa ra đầu ngõ, vạch lồn xem ghe.
(Người cầm bó rơm xin lửa)

Chưa hỏi đã cưới liền tay
Bức chí ta nên phải lấy mày
Đêm nằm tơ tưởng sờ cùng mó
Mó đến mày, lại sướng đến ta.
(cái quạt)

Gầy gò có bốn cái xương
Cái giải thòng thơng vướng anh c. dàị
(Quả nhãn)

Già thì đặc bí bì bì
Con gái đương thì rỗng toách toành toanh.
(cau lúc già và lúc là cau hoa)

Lồm xồm hai mép những lông
Ở giữa có lỗ đàn ông chui vào
Chui vào rồi lại chui ra
Năm thì mười họa đàn bà mới chui.
(Cái áo tơi)

Già ăn với cà kheo
Lại thêm c. lõ, lại đèo nắm lông.
(Miếng giầu thuốc)

L. già da dính tận xương
Váy xanh mỏng mảnh lại thương c. dài.
(Cối giã gạo)

Lù lù như mu l. chị
Lị xị như đầu c. tôi
Ngày n_ đi khắp mọi nơi
Đến đêm lại chui vao mu l. chi..
(Con rùa)

Lưng tròn đít lại bảnh bao
Mân mân mó mó đút n_ vào
Thủy hỏa âm dương sôi sình sịch
Âm dương nhị khí sướng làm saọ
(điếu thuốc lào)

Mình bằng quả chuối tiêu
L. bằng vỏ trấu, lổ bằng niêụ
(Con chuột)

Mình tròn, da lại trắng tinh
Hể nóng đến mình thì ưỡn vú ra
Ăn phải thịt gà lại tịt vú đị
(bánh đa sát-kê)

Mình tròn trùng trục, đầu toét toè loe
Đút vào con gái, cô con gái nghe,
Đút vào bà lão, bà lão lắc.
(đôi hoa tai)

Người thì cao lớn trượng phu
Đóng mười lần khố, trật cu ra ngoàị
(cây chuối có hoa)

Rành rành ba góc, giữa con cóc ngồi
Hai bên thiên lôi, hai bên địa võng.
(hai cái vú)

Rau âm phủ nấu với mủ l. tiên
Ngựa cửa quyền nấu với ả l. tranh.
(Măng nấu với rươi, cua nấu với khế)

Thoạt vào thì vén váy lên
Cái dưới mấp máy, cái trên gật gù
(dệt cửi)

Trên lông dưới lông,
tối lồng làm một
(con mắt)

Vừa bằng cổ tay đâm n_ vô l.
Gặp ông quan ôn, bỏ l. mà chạỵ
(Con chuột và con mèo)

Tục ngữ phong dao

Anh em bất nghĩa chi tồn
Anh đánh miếng l. em đánh miếng gh.
Anh em bất nghĩa chi khoèo
Anh thì đ. mèo, em lại cầm đuôị

Bủng người tươi đ.
Ba chiếc sóng cồn, mấy cái lông l. rụng sa.ch.

Bà cốt đánh trống long tong
Nhảy lên nhãy xuống con ong đốt l.

Bà đội cho chí bà cai
Bà nào hay đố chữ cũng l. ngoài, váy trong.

C. ai vừa mũi người ấy.

Của l., l. đòi, của c., c. quên.

Có l. thì giữ,
C. ông hay chữ đi đêm.

Con mày con nuôi chẳng bằng con c. làm ra

Chơi no bỏ gio vào đ.
Chồng chết còn chửa hết tang
L. đà ngấm ngáp như mang cá mè.

Đánh đĩ gặp năm toi c.
Đĩ có tông, ai giồng nên đĩ
Đủn đỡn như đĩ được cái đanh.
Đẻ con khôn mát l. rời rợi
Đẻ con dại thảm hại cái l.

Đi sau ăn rau bà đẻ,
Ăn giẻ chùi trôn, ăn l. chấm muốị

Đĩ xơ, đĩ xác, đĩ xạc, đĩ xờ
Đĩ ở trên bờ, đĩ lặn xuống aọ

Gà Tò, lợn Tó, vó Vạn Đồn,
l. Cổ Am, c. Hành Thiện.

Gái đâu có gái lạ đời,
Chỉ còn thiếu một ông trời không chim.

Giữ được đằng trôn, đằng l. quạ mổ.
Trai thấy l. lạ như quạ thấy gà con.

Già thì già tóc, già tai,
Già răng già lợi, đồ chơi không già.

L. rằng l. chẳng sợ ai,
Sợ thằng say rượu, đ. dai đau l.

Lưỡi không xương nhiều đường lắt léo
l. không cạp, l. méo làm ba

Mưu con đĩ, trí học trò.
May hơn khôn, lớn l. hơn đẹp.
Nuôi con chẳng biết tính con
Hể vú gai gạo thì l. chớp đông.

Nứng c. thì vặc đến nhà
L. còn đau mắt không ra đến ngoài

No cơm ấm cật dậm dật mọi nơi
Quần áo tả tơi mọi nơi chẳng dật.

Nằm đất hàng hương còn hơn nằm hàng cá
L. cô hàng cá còn nhẵn hơn má anh chàng hương.

Nhăn nhở như l. lở sơn.
Quang không lành, mắng giành không trơn
L. không lành, mắng quanh hàng xóm.
Rền rĩ như đĩ phải tim lạ

Ra đường ai nói thế nào
Về nhà lấy thớt lấy dao băm l.
Thấy đua thì cũng đua đòi
Thấy tỉa lông nách, cũng xoi lông l.

Trân trân như l. trần không đáỵ
Uống rượu ngồi dai, dái mài xuống đất.

Văn chương chữ nghĩa bề bề,
Thần l. ám ảnh cũng mê mẫn nguờị
Xót lòng mẹ góa con côi
Kiếm ăn lần hồi, l. lớn bằng mo.
(Sưu tầm)