Hiển thị các bài đăng có nhãn Tản mạn. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Tản mạn. Hiển thị tất cả bài đăng

Xem trình diễn thư pháp vỉa hè 2013

Nhóm tham gia trình diễn (Click phóng to)

Lâu nay, công chúng Việt Nam ít biết nhiều đến khái niệm “trình diễn thư pháp” hay “trình hiện thư pháp” (Calligraphy Performance) qua các phương tiện truyền thông quốc nội (đa phần là những báo đài lá cải), nhưng nhờ đó mà hoạt động hành vi này cũng đã đến được với công chúng phần nào, mặc dù hầu hết số công chúng này, khi tiếp cận cũng chỉ là kiểu tiếp cận và nhận biết theo kiểu “cởi ngựa xem hoa”. Song, dù là ít ỏi, dù là manh mún, dù là bộc phát nơi vỉa hè, hay đôi lúc là nghiêm túc, chỉnh tề, có tổ chức trong các triển lãm ở các gallery, nhưng với việc đã tạo nên một câu chuyện mới, câu chuyện của thư pháp đương tại Việt Nam trong bối cảnh “ấu lão đồng tân” cá mè một lứa của giới viết chữ; hay trọng già khinh trẻ, sủng nhục bất phân của đám đông công chúng mù chữ (Hán) mỗi khi tết đến xuân về ra vỉa hè Miếu Văn xin/mua/ăn mày/cướp chữ.

Từ trình diễn nghiệp dư… nơi qua đường không ai hay

Mấy năm trở lại đây, hoạt động trình diễn thư pháp ở vỉa hè Văn Miếu mỗi khi kết thúc chợ chữ (rằm tháng Giêng) đã gần như có nếp. Những năm trước, hoạt động này còn nằm trong phạm vi hoạch định của một số người, có mong muốn phô bày chính kiến của mình, thông qua hành động trình diễn và tặng chữ tùy tâm cho khách, nhằm phản đối việc các ông già vừa giảo mạo thánh thần vừa làm con buôn có hạng. Nhưng qua năm nay, câu chuyện ấy đã tiến xa hơn một bước, từ việc tuyển chọn các thư gia cũng như nội dung trình hiện tác phẩm, đến việc tổ chức trình diễn đã có phần long trọng, chỉn chu, nghiêm túc cũng như công tác hậu cần cho buổi trình diễn đã dần tiệm cận với cụm từ “chuyên nghiệp”.

Năm nay, tham gia trình diễn có 17 tác giả trẻ. Người lớn tuổi nhất sinh năm 1969 là Lê Thanh Hải, ngưởi trẻ nhất thuộc thế hệ cuối 8X. Gần hết trong số các tác giả đều đã tốt nghiệp đại học hoặc trên đại học. Họ từng là cán bộ các viện, các câu lạc bộ có chuyên ngành liên quan đến văn tự học và thư pháp, như viện Hán Nôm, viện KHXH&NV, viện Văn học v.v… Họ có những người từng du học tại hải ngoại các chuyên ngành về ngôn ngữ học, văn bản học, hội họa v.v… Nói một cách ngắn gọn là, họ là những người Thực Học. Họ say mê thư pháp, có ước mơ trong sáng và đầy nghiêm túc về phân môn mình đang theo đuổi. Lại phải nói một cách khác, họ có ước mơ của một danh gia. Ước mơ đó thể hiện qua việc họ đã âm thầm tiếp nhận di sản của ông cha, rồi truy cầu cái cổ vận của thư pháp cổ điển, tiếp cận các thể chữ đã thành tựu của thư pháp Trung Hoa như triện, lệ, khải, hành thảo… Với những gì đã thể hiện trên 50 mét lụa màu vàng trải dọc tường Văn Miếu, người ta đã có dịp để nhìn vào kết quả quá trình học tập của các tác giả trẻ này. Mỗi người một lối, mỗi người một vẻ, mỗi người một thể, và hầu như họ đã nhiều ít định được cho mình cái thể tự trên con đường muốn đi xa hơn nữa. Về khải thư, đã xuất hiện lối viết của các nhà Nhan, Triệu; về Hành thư, đã xuất hiện lối viết của cha con nhà họ Vương, về Lệ thư đã thấy bóng dáng của Tào Toàn, về Thảo thư, đã thấp thoáng bóng hình của Hoài Tố, Chung Diêu, Bát Đại Sơn Nhân… Cái dải lụa ngắn củn như chiều dài học thuật về thư pháp nước nhà ấy, lại có thể phô diễn được nhiều đến thế! Thấy mà mừng rơi nước mắt!

Khi tấm lụa được trình hiện đến chữ cuối cùng, nhiều người ngẩn ngơ, nhiều người hoang mang, nhiều người thờ ơ, nhiều người hậm hực. Nhìn một lượt qua các ánh mắt của công chúng đứng vây quanh, cảm nhận bằng phân tâm học một chút thì cảm thấy buồn buồn. Nhưng cái buồn đó được xô đi nhanh chóng, để nhường chỗ cho một niềm vui nho nhỏ, đó chính là những gì đã được thể hiện trên cái dải lụa kia, nó ít nhiều đã trở thành ám tượng, chí ít trong lòng và trong đầu người viết bài này. Nhìn một cách tổng thể cả 50m lụa, một chương pháp lạ mà quen, một vô tình trong hữu ý, một “cố ý đâm xôi xôi lại hỏng”, một “vô tình buông bút bút đơm hoa”… Những trích đoạn nếu cắt nó ra khỏi chỉnh thể ấy thì sẽ hỏng, nhưng nó nằm đó lại là sa tế, lại là xiêm y, lại là xí quách cho cả một hỗn mang chữ, mà không hề rời rạc. Lại có những trích đoạn nếu cắt ra thì có thể làm thiếp cho nhiều người lâm tập, nhưng nằm trong đó thì… hơi phí! Nó giống như việc người ta kê sa-lông vào túp lều tranh và, người khó tính thì dễ buột mồm mà rằng, nó như bông hoa nhài cắm bãi cứt trâu!

Trong buổi trình diễn, tôi ấn tượng bởi những câu phát biểu của các thư gia trẻ, trong đó có lời của họa sĩ Lê Quốc Việt rằng: “Hành động này nhằm phản đối việc bán chữ vô liêm sỉ của các đồ già trên vỉa hè, trả lại cho văn hóa tặng chữ đầu xuân tùy tâm hoan hỷ vẻ đẹp vốn có của nó!”. Câu nói như dao cứa vào những người có chữ “sĩ” trong đầu, nhưng nó quá cũ mèm và quá nhẹ với những người đã tự bán đi, chữ ấy để mua cơm và mua danh ngay tại cái vỉa hè đó rồi. Tôi đã định viết ra đây, trong cái bài này, câu ngạn ngữ “Chó cứ sủa và đoàn người cứ đi”, nhưng nghĩ ngợi rồi lại thôi không viết nữa…

Đến giáng một đòn thậm lực vào cái gọi là “Thư pháp mậu dịch”

Cụm từ “mậu dịch” lâu nay, tôi nghe đám văn sĩ hiện đại lẫn hậu hiện đại gọi đám văn nô hay đám văn sĩ viết thuê cho nhà nước là “văn chương mậu dịch”; lại nghe những người luyện tập võ công thực sự, gọi đám võ sư mở lớp chiêu sinh ồ ạt ở các cung nọ sân kia là “Võ mậu dịch”; nhân đó, tôi cũng muốn dùng khái niệm “Thư pháp mậu dịch” để chỉ những người bán giấy tặng chữ lừa bịp nơi vỉa hè Văn Miếu.

Việc bày tỏ thái độ gay gắt giữa các thư gia với các “ông đồ” già lẫn các “ông rồ trẻ” (mác bị phong và tự phong) xuất phát tự nhiều lý do. Tuy nhiên, tụm chung lại, nó chỉ xuất phát từ mấy việc mà thôi. Thứ nhất, công chúng Việt Nam cần phải biết các “ông đồ” già ngồi ngoài Văn Miếu họ là ai? Người biết chuyện, đi một vòng chỉ thấy gần như hầu hết các cụ ấy đều là học trò về thư pháp (tôi không nói là về chữ Hán) của các thư gia trẻ, ngày thường vẫn đang theo học ở các lớp với trình độ nhập môn cơ bản, thế nhưng, khi ra ngồi ngoài vỉa hè bán/cho chữ, thì bốc giời ăn vả, tự phong cho mình đủ loại tước hiệu, hoặc tự vẽ sử cho mình rằng là con nhà trâm anh thế phiệt, ăn học từ nhỏ v.v… Thứ hai, họ vu khống cho chữ Hán là thứ chữ tâm linh, đẩy câu chuyện ma mị vào trong chữ nghĩa để lừa phỉnh đám người ngu muội cả tin. Thứ ba là vịn danh giòng giống để lòe phỉnh người ngu dốt, như lấy mác của ông bà từng là tác giả nọ, nhà văn kia v.v… để tự phong cho mình cái nhãn tươi tốt, thêm vào đó là núp váy chính khách trong vài hình ảnh ở các hội chợ, chụp ảnh phóng to lên, oai và oách với công chúng mù chữ. Thứ tư là dựa vào cái mác được phong là một trong tứ trụ triều đình về thư pháp, để vẽ hưu vẽ vượn lên giấy rồi chặt chém khách hàng cả tin. (Nhân đây, tôi ân hận thú nhận về việc tạo ra cái gọi là “tứ trụ triều đình” ấy, chính tôi là tác giả. Ngày tôi còn làm ở báo TT&VH, tôi và nhà báo Đỗ Doãn Phương (nay là phóng viên tổng biên tập) đã gọi 4 người ấy là tứ trụ triều đình, bọn bồi bút sau này vơ vào đó và làm nhiều trò PR hợm hĩnh, nhưng nếu phải đày địa ngục thì tôi là người bị đày xuống trước). Với những lý do đó mà các thư pháp trẻ không muốn ngồi chung chiếu với họ, nói như Lê Quốc Việt là “trọng sĩ chứ không trọng nghiệp”, tuổi đời họ đáng tuổi cha chú, nhưng tuổi nghề, e là họ chỉ thấp chưa đến mắt cá nhiều thư gia trẻ mà thôi.

Đòn giáng này chưa biết có làm được gì hữu ích cho nền thư pháp non nớt và yếu đuối của nước nhà hay không, nhưng nó tựa hồ như phát pháo mở màn đầu tiên có trọng lực vào một mục tiêu khá rõ ràng. Đồng thời, nó cũng vén tấm màn thực về nghệ thuật thư pháp với công chúng Việt Nam, và hơn cả, cuộc trình diễn là tiếng nói của thời đại, là chiếc cầu nối giữa đương tại Việt Nam tân nho thanh niên với các bậc tiền bối thánh hiền, đang ngồi trong Văn Miếu và trong 82 văn bia tiến sĩ.

Mường tượng mơ hồ về một tương lai bên vỉa tường miếu Khổng…
Nguyễn Ngọc Thanh trình diễn thư pháp bài thơ "Thu cảnh" của vua Trần Nhân Tông
Kết thúc cuộc trình diễn, tôi xin các thư gia trẻ mấy chữ về cho con trai năm nay vào lớp một, với sự tùy tâm hoan hỷ như đúng với khẩu hiệu các thư gia mong muốn. Thư gia Vũ Thanh Tùng cho con tôi bốn chữ “Anh hùng tuấn kiệt” với lời đề tặng “Cháu tôi giữ lấy“; thư gia Nguyễn Trung Hoàng Long cho con tôi chữ Chí với dòng để tặng “Tặng cháu Kiệt“; thư gia Nguyễn Đại Cồ Việt tặng con tôi bốn chữ “Bộ bộ đăng cao” với lời đề tặng tương tự. Tôi rước chữ về nhà tặng con, lòng vui và hân hoan khôn tả. Nếu như ai cũng như tôi, mỗi năm tết đến xuân về, ra hiên miếu Khổng, thỉnh chữ đầu xuân với lời đề lạc khoản chân thành của các thư gia, và tất nhiên với sự tùy tâm của mình trong hoan hỷ, thì xuân chắc sẽ tươi hơn, tết chắc sẽ đậm hơn, thi vị chữ nghĩa sẽ du dương hơn trong sắc mai vàng đào đỏ. Tôi vẩn vơ nghĩ thế và hình dung về một vỉa hè Văn Miếu trong mơ như thế. Cũng cần nói thêm một chút chỗ này về cái gọi là “tùy tâm hoan hỷ”. Công chúng cũng phải có tinh thần “tự sĩ” trong việc tùy tâm, đừng tự biến mình thành kẻ ăn mày! Giấy bút mực nghiên không phải là đồ từ thiện, và hơn nữa, cách cho quý hơn của đem cho, và cách nhận quý hơn đồ được nhận.

Tuy nhiên, mơ thì ai cũng có quyền, nhưng nếu như giấc mơ mang hình cái thớt (chữ của Trần Quang Quý) thì hiện thực đáng dao phay! (tác giả). Giấc mơ kia nó phụ thuộc quá nhiều vào tầm đón đợi của công chúng Nam Việt, phụ thuộc quá nhiều vào giới truyền thông có học (không phải đám bồi bút vô học), biết chuyên môn hoặc biết hỏi người có chuyên môn khi viết báo. Để những trẻ già khi ra Văn Miếu biết đâu là chân là ngụy, nhận ra đâu là đồ giả, đâu là đồ thật, đâu là kẻ què lại tự xây ngai… Phải đến lúc đó thì cái gọi là “nghệ thuật thư pháp” may ra có chỗ để mà “trình diễn”, và những tổ tiên ông bà của nhân dân (đã chết rồi) hằng năm không bị người nhà đi thỉnh rác về thờ. (Tôi tin nếu Diêm Vương là có thật, ông ấy sẽ cho nhiều người sống lại để chết thêm lần nữa, khi chính họ được cúng những chữ nghĩa cụt què, bẩn thỉu, nhớp nhúa đầy danh lợi lần mùi nước tiểu nơi vỉa hè).

Người viết bài này đứng trên lập trường và quan điểm cá nhân, ủng hộ sự thật và chấp nhận mọi phản biện (nếu có), kể cả chấp nhận cả việc sẽ tạo khẩu nghiệp để đày địa ngục nếu Phán Quan và Diêm Vương cũng mù như công chúng xin chữ ở vỉa hè kia…

Trịnh Tuấn - Nguyên Tiêu 2013

"Nghề hót phân trên đời là nhất!"

Trích từ sách Kỹ thuật người An Nam
Phụ nữ thu phân tại nhà (Sách Kỹ thuật người An Nam tr.13)
Blog người hiếu cổ - Nói đến làng Cổ Nhuế xưa kia, có câu một số câu như sau: 
"Thanh niên Cổ Nhuế xin thề
Chưa đầy hai sọt chưa về quê hương" 
(ca dao)
"Đào Nhật Tân, phân Cổ Nhuế" 
(tục ngữ)
"Anh bước đi đầu không ngoảnh lại
Sau lưng anh cứt đái văng đầy”
(Nguyễn Đình Thi)

Ngày nay, Cổ Nhuế là vùng đất kinh tế phát triển, đời sống người dân cao, "nghề truyền thống" của làng là hót phân đã trở thành dĩ vãng. Tuy nhiên, khi hồi tưởng lại quá khứ, chúng ta vẫn thấy được những nét đặc sắc văn hóa đáng trân trọng. Nhân nhàn rỗi xem sách "Kỹ thuật người An Nam" của Henri Oger, xin đưa hình ảnh những người đi hót phân được ghi lại trong sách để chúng ta cùng hình dung lại công việc một thời của người xưa, đồng thời tôi có tìm được một truyện ngắn của nhà văn Nguyễn Huy Thiệp khá hay để cùng hình dung một cách cụ thể hơn về hoạt động buôn bán "thứ của quý" này.

CHUYỆN ÔNG MÓNG - Nguyễn Huy Thiệp xuân 2011
"Người lấy phân" - tr.34
"Mấy năm trước nghe nói ở ngoại thành có một chợ bán phân nổi tiếng, "độc nhất vô nhị " nên tôi tò mò đến xem

Chợ phân họp chừng một giờ đồng hồ từ 3 giờ sáng đến 4 giờ sáng ở ngay bên đường đi Sơn Tây. Đây là vùng trồng rau, trồng cà nổi tiếng. Giống cà pháo, cà bát rất hợp với việc bón phân tươi, nhất là phân người. Người ta cũng dùng phân để bón cho lúa, nhưng phân bón cho lúa phải được ủ cho mục ra, cho chín phân. Thế nào là ủ phân ? Phân tươi có nhiều loại : phân trâu bò, phân lợn, phân gà (gọi chung là phân chuồng), phân người (còn gọi là phân bắc) nhưng được ưa quý hơn cả là phân lợn, phân gà. Phân lợn quý vì nó mát, có thể dùng ngay, bón được ngay cho cây, mà cây nào cũng hợp. Phân gà cũng quý nhưng phân gà nóng, chỉ hợp bón cho cây ớt mà thôi. Riêng phân người (phân bắc) có lẽ bởi có nhiều đạm, nhiều chất khó phân huỷ nên bón trực tiếp thì cây xót, chết ngay. Riêng chỉ cây cà là chịu đựng được, lại hợp với việc bón loại phân này. Nhìn chung, tất cả các loại phân đều phải được ủ thì mới nên dùng. Người ta đào một cái hố ở ruộng, chất phân vào cùng với tro, trấu, rồi trát bùn non trộn với rơm bên ngoài, trông như một cái mả, để đấy chừng dăm bữa nửa tháng cho ngấu dần. Phân được ủ chín, cứ thế mục ra, oải ra. Những con dòi ăn hết phân cũng chết đi, bản thân nó cũng hoá thành phân.

Khi tôi đến thăm chợ phân thì chợ đang họp. Đây là chợ phân tươi, hoàn toàn không có phân ủ (phân chín) không có phân xanh (phân làm từ các loại lá cây) hay phân hoá học. Cũng rất ít có phân chuồng, tức là phân lợn, phân gà hay phân trâu bò. Tất cả đều là phân người.


Phân người được cho vào những thùng gò bằng tôn như thùng gánh nước. Cũng có một số người dùng thùng gỗ hoặc cho phân vào sọt (sọt được lót bằng bao ni-lông). Có lẽ phần lớn phân ở đây đều được lấy từ các nhà xí công cộng trong thành phố ra, nhiều thùng phân còn thấy lẫn cả giấy vở học sinh hay giấy báo.


Chợ phân không đông, chỉ có chừng hơn ba chục người vừa mua vừa bán. Hình như họ vốn đã quen biết nhau và khá thuộc " mặt hàng " của nhau nên việc mua bán thoả thuận cũng nhạnh Dưới ánh đèn cao áp tựa như ánh trăng và không khí hơi lạnh buốt, chợ phân cũng có phần nào giấu đi được sự bẩn thỉu, sự nghèo hèn, lam lũ và cần lao.


Những người bán phân đều bịt mặt hay đeo khẩu trang. Tất cả đều bán mua, mua bán một cách âm thầm chịu đựng, ít nhất đấy cũng là cảm giác ban đầu của tội Không có ai nói to tiếng hoặc mặc cả ráo riết như ở các chợ khác, chỉ trừ có mỗi một người, người này có vẻ như " ông chủ chợ ". Ông ta khoảng 60 tuổi, dáng người thấp đậm, đầu húi cua, mắt trố, quai hàm bạnh, ngực nở nang, chân tay rắn chắc. Ông ta không đeo khẩu trang hay bịt mặt, hoàn toàn chẳng có vẻ gì sợ hãi hay ghê tởm khi phải tiếp xúc, đụng chạm với các thùng phân bẩn thỉu và các dụng cụ dơ dáy ở đây. Tôi để ý thấy ông ta không mua, cũng không bán nhưng ông ta đi đi lại lại, nhắc nhở mọi người, xem xét, đánh giá từng thùng phân, bông đùa, góp ý cho những ai còn đang băn khoăn hay lưỡng lự. Ông ta khá linh hoạt, lanh lẹn. Sự linh hoạt của ông ta khiến cho phiên chợ sôi nổi hẳn lên nhưng cũng có vẻ gì khá bất nhẫn. Ông ta như một vị nhạc trưởng, như người giữ nhịp điệu cho cả phiên chợ quái đản này.


Có mấy người đôi co về hai sọt phân của một phụ nữ. Người phụ nữ này ăn mặc quần áo như một nhân viên Công ti vệ sinh. Người phụ nữ cầu cứu "ông chủ chợ " :


- Bác Móng ! Phân này của cháu mà chê là chua thì có ức không ?


Ông Móng (tức " ông chủ chợ ") đến gần xem xét. Ông ta dùng một cái gắp phân bằng cật tre, trông hơi giống một cái đũa cả sục sâu vào đáy sọt phân rồi rút ra, đưa lên mũi ngửi. Một con nhặng xanh bay nhoằng ở ngay trước mặt ông ta. Ông ta lùi một bước, quắc mắt, chuyển cái gắp phân từ tay trái sang tay phải rồi ước lượng đón đầu đường bay của con nhặng xanh, đập véo một cái vào không trung. Ông ta hô lớn :

- Chết này !

Sau tiếng hô người ta thấy con nhặng xanh ngã vật xuống ở giữa sọt phân. Ông ta bình thản bảo người mua hàng :

- Phân tốt đấy, không chua đâu ! Chắc hố xí nhà này gần chỗ làm đậu phụ nên có nước đỗ tương lẫn vào !

Người phụ nữ bảo :

- Vâng đúng ! Trong phân vẫn còn vỏ đỗ tương đây này !

Ông Móng bảo :

- Phân của mày hôm nay không đậm như phân hôm qua ! Nát nhẽo nát nhèo... Thôi thì giảm một giá...

Người phụ nữ bảo :

- Cháu gánh kẽo kẹt suốt từ cửa ngoài ô đến đây, nặng ơi là nặng. . .

Ông Móng bảo :

- Cho chết ! Ai bảo tham múc nhiều nước vào. . . Mày phải chắt cho kiệt nước đi thì phân mới ngon !

Ở cuối chợ có ai trút hai thùng phân sang hai cái thúng sơn bị đổ ra đường. Ông Móng quát :

- Vét ngay ! Vét cho thật sạch ! Ban ngày người ta mà thấy phân dây ra đường là không còn để cho họp chợ nữa đâu !


Người bán hàng vét phân bằng một dụng cụ làm bằng tôn hơi giống như một cái thìa xúp to, có cán dài, cái này cũng gọi là móng. Tuy đã vét sạch nhưng trên mặt đường nhựa vẫn lầy nhầy một lớp váng nước bu đầy ruồi nhặng. Ông Móng đi đến, bắt người kia phải đi múc nước từ một con mương gần đấy lên để rửa đường.


Một thanh niên trẻ, người gầy nhẳng đẩy một xe phên đi đến. Đây là chiếc xe vẫn dùng để gom rác nhưng được sửa đi để đựng phận Những người không bán được hàng (ế hàng) hoặc hàng xấu (tức là phân lõng bõng toàn nước hay nhiều dòi quá) đều trút cả vào xe cho anh tạ Anh ta mua hết nhưng đều với giá rẻ, mọi người gọi là giá bèo, giá vứt đi, giá hết chợ. Ông Móng và anh này có vẻ thân nhạu Ông Móng khen :

- Làm được nhà, lấy được vợ chỉ nhờ vào phân ! Thế là nhất !

Anh ta cười, vẻ mãn nguyện, lấy thuốc lá ra mời ông Móng. Hai người đứng hút thuốc lá, bàn tán những chuyện gì đó không rõ nhưng nghe loáng thoáng có câu " nhất nghệ tinh, nhất thân vinh " với " sinh ư nghệ, tử ư nghệ ". . . 
 
"Lấy phân" - tr.307
Phía cánh đồng ngoại thành bóng tối lễnh loãng dần, bắt đầu mờ mờ nhìn rõ mặt người. Những tia mặt trời đầu tiên hân hoan báo hiệu một ngày mới đang đến dần. Những tiếng rung động đầu tiên rất khẽ rồi cứ thế lan toả ra, lớn dần lên, liên hoàn ầm ào như có muôn ngàn tiếng sóng vỗ, như có muôn ngàn tiếng chim đập cánh, như rùng rùng tiếng dậm chân của cả đoàn người. Tiếng còi xe lửa, tiếng còi ô-tô lảnh lót vang lện Thành phố bắt đầu cựa mình thức dậy như một con mãnh thú to lớn, như một tên khổng lồ vĩ đại có rất nhiều tham vọng phàm tục, có rất nhiều ước mơ táo bạo cùng với năng lực ẩn tàng. Hắn vừa chậm rãi, lại nhanh nhẹn, vừa ngáp ngủ, lại tỉnh thức. Người ta không thể lường được một ngày của hắn rồi sẽ thế nào, hắn sẽ làm gì, hắn sẽ bắt đầu bữa tiệc thịt người ngay tức khắc hay sẽ hào hiệp vung tay gia ân rải bạc vàng lên khắp chốn cùng nơi như một đế vượng Thành phố ! Đấy là bao nhiêu nỗi kinh hoàng, bao nhiêu niềm vui hoan lạc ! Thành phố ! Ở đấy có cả biết bao cảnh giới thiên đường và sự đoạ đầy trong tầng tầng địa ngục !

Những người họp chợ phân tản đi rất nhanh, loáng cái chẳng thấy còn một người nào, cứ như là chui xuống đất. Ông Móng đi dọc cái chợ không còn một ai xem xét. Không biết ông ta lấy đâu ra một cái chổi nan dài, chỗ nào còn rớt lại ít phân thì ông ta dùng chổi rấp ngay vào bên rệ đường như để phi tạng Xong xuôi ông ta bước xuống con mương gần đấy rửa tay rồi lững thững đi vào quán phở vừa mới mở cửa bên đường. Ở đây ông được đón tiếp như một khách hàng quen biết thường xuyên đặc biệt. Chủ quán biết rõ ông thích ăn gì và ăn thế nào.


Sau lần tôi đến chợ phân, tôi đã làm quen với ông Móng, tìm cách trò chuyện với ông ta nhưng ông ta kín như bựng Tôi cũng đã nghe thiên hạ kể về ông ta nhiều chuyện nhưng đều " bán tín bán nghi ", chẳng biết thực hư thế nào.


Bốn chục năm trước, Móng là một thanh niên nông thôn chất phác. Anh ta sống ở một làng quê ven thành. Lớn lên Móng đi lính, đã từng sang Lào và Campuchia. Cũng có người nói hồi trẻ Móng khá tài hoa, cầm, kỳ, thi, hoạ đủ mùi.


Một dạo, đóng quân ở một vùng xa, Móng có làm quen và yêu một cô gái Chặm Cô gái tóc xoăn, da nâu, nồng nàn như lửa. Anh lính nhà quê chất phác si tình như bị hớp hồn. Họ kéo nhau vào rừng trước một pho tượng đá cổ tạc những hình thù kỳ dị mà mãi về sau Móng được nghe giải thích là tượng linga. Móng đòi cô gái trao thận Cô gái bắt Móng phải thề chung thuỷ với cộ Nửa đùa nửa thật, Móng thề :

- Nếu tôi không chung thuỷ với em thì suốt đời tôi đi hót cứt !

Cô gái vui vẻ, tự nguyện trao thận Sau đó Móng đã chuyển đi nơi khác. Anh ta quên ngay cô gái người Chặm Cuộc đời chinh chiến giang hồ bôn ba khắp nẻo, sau này Móng cũng đã nhiều lần gặp gỡ không ít những cô gái khác. Hết chiến tranh trở về quê quán, giống như nhiều người đàn ông có giáo dục và lương thiện khác đã qua thử thách, Móng lấy một cô gái làng, lập gia đình và sống cần cù, gương mẫu.


Tôi nghe kể nhưng không tin lắm vào câu chuyện trện Tôi hỏi ông Móng và biết ông làm việc ở chợ phân này mấy chục năm nay tình nguyện và không vụ lợi. Nhiều người cũng đã xác nhận việc ấy với tội Không có lẽ ông lại có tình yêu và lòng say mê với phân như khối người dở hơi chúng ta vẫn say mê văn chương nghệ thuật, toán học, chính trị hay đồ cổ ? Tôi có mang chuyện này trao đổi với một nhà sự Ông bảo :


- Sám hối vẫn thường là một nhu cầu tâm linh của người ta khi đã về già. Thế nào gọi là sám ? Thế nào gọi là hối ? Sám có nghĩa là ăn năn về những lỗi lầm mình đã phạm từ trước. Các nghiệp ác, các tội ngu si mê chấp, kiêu ngạo khinh mạn. . . hoàn toàn xin ăn năn hối lỗi, từ nay về sau không còn gây ra nữa. Thế gọi là sám. Hối có nghĩa là hối cải những điều lỗi có thể phạm phải sau này. Các nghiệp ác, các tội ngu mê, kiêu ngạo, ngông cuồng, ghen ghét. . . đã được giác ngộ sẽ phải dứt bỏ hẳn, không gây ra nữa. Thế gọi là hối, gọi chung là sám hối. Kẻ phàm phu mê chấp chỉ biết ăn năn những tội lỗi đã phạm phải từ trước mà không biết hối cải những tội lỗi về sau của mình thế là tội trước chưa diệt, lỗi sau lại sinh, vậy chưa thể gọi là sám hối được. Mỗi một thiện trí thức phải nung nấu lắm !


Tôi ngồi nghe, không hoàn toàn bằng lòng với cách giải thích như trên vì thấy ông Móng không có vẻ gì đang là người ăn năn sám hối. Tôi cũng đã dò hỏi về " linga " và các quan niệm về quả báo của người xựa Trong bái vật tổ - tôn giáo nguyên thuỷ (nhiều người coi là tà giáo) - hình tượng âm vật, dương vật giao cấu cũng khá phổ biến, chưa nghe nói vì báng bổ mà đến nỗi phải rước tai hoạ gì. Chắc chắn không hề có chuyện mê tín ở đậy Tiếp xúc với ông Móng, tôi thấy ông là người vô thần, cũng khá hồn nhiên chất phác yêu đời. Tôi băn khoăn quá, giải thích chuyện này cho thật thấu đáo kể cũng đau đầu.


- Không tôn giáo, không chính trị, không vụ lợi, không "sếch-xy " - Ông Móng bảo tôi - Nghề hót phân trên đời là nhất ! 

 Truyện dẫn từ: tnxm.net"

Tổng hợp lễ kỷ niệm 40 năm thành lập bộ môn Hán Nôm

Như Thông báo đặc biệt mà chúng tôi đã đưa tin, bộ môn Hán Nôm thuộc Khoa Văn học của Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn (Đại học Quốc gia Hà Nội) đã long trọng tổ chức lễ kỷ niệm 40 năm thành lập vào hai ngày 16 và 17/11/2012 . Về dự có đông đảo các thầy cô, cựu sinh viên các khóa Hán Nôm và các đại diện của các cơ quan đoàn thể, không khí rất đông vui và trang trọng. Ảnh đã có được mấy hôm nhưng hôm nay mới tập hợp được các ảnh mang tính tiêu biểu cho lễ kỷ niệm, xin được chia sẻ cùng quý vị độc giả để chung vui cùng với bộ môn Hán Nôm của nhà trường.

1) Hoạt động dưới sân trường - Hội trại:
Các em sinh viên rất hăng say trang trí cổng trại lớp mình:





Các thầy rất hoan hỉ cho chữ:

Thầy Đinh Thanh Hiếu cho chữ và giải nghĩa cho các em sinh viên

Thầy Phạm Thành Hưng nhiệt tình cho chữ

Thầy Đỗ Tiến Thắng phóng bút viết tặng học trò

Các em sinh viên với chữ vừa xin được:




Tân cựu sinh viên, già trẻ lớn bé cùng chung niềm vui:


Những lứa sinh viên Hán Nôm đầu tiên, nay là những cán bộ nghiên cứu kỳ cựu

Hoàn tất buổi cho chữ

Thầy trò các thế hệ

Thầy Nguyễn Tuấn Cường cùng sinh viên K55

Thầy Đinh Thanh Hiếu cùng sinh viên K56

Thầy Phạm Văn Khoái

Thầy Lê Anh Tuấn chụp cùng TS. Nguyễn Xuân Diện

Thầy Phạm Ánh Sao cùng sinh viên K55


2) Hoạt động khánh tiết tại hội trường:



Văn nghệ chào mừng

Thầy Nguyễn Kim Sơn với mong muốn miễn giảm học phí cho sinh viên Hán Nôm

"Thượng tường thanh giá" - tặng ĐH Quốc gia Hà Nội

"Quan văn hóa thành" - tặng Trường ĐH Khoa học Xã hội và Nhân văn

"Mỹ thành tại cửu" - tặng khoa Văn học trường ĐH KHXH&NV

Các cán bộ Viện nghiên cứu Hán Nôm - cựu sinh viên bộ môn Hán Nôm chụp ảnh lưu niệm

Áo Kimono của Nhật có phải bắt nguồn từ sự dâm đãng?

Kimono (着物 Trứ vật nghĩa là "đồ để mặc"; hoặc 和服 Hòa phục, nghĩa là "y phục Nhật") là loại y phục truyền thống của Nhật Bản.
Kimono dành cho phụ nữ chỉ có một cỡ duy nhất, người mặc cần phải bó y phục lại cho phù hợp với bản thân mình. Kimono có 2 loại, tay rộng và tay ngắn. Phụ nữ đã lấy chồng thường không mặc loại tay rộng, vì rất vướng víu khi làm việc. Khi mặc kimono phải mặc juban trước, là một áo kimono lót để bảo vệ kimono khỏi dơ, sau đó cuốn bên phải vào trước, bên trái vào sau, và thắt lại bằng thắt lưng Obi làm bằng lụa, rất đắt tiền. Nếu quấn bên trái trước nghĩa là bạn sắp đi dự tang lễ. Việc mặc kimono rất mất thời gian, và hầu như không thể tự mặc. Người mặc kimono phải đi guốc gỗ, và mang bít tất Tabi màu trắng.

Người Nhật đã sử dụng kimono trong vài trăm năm. Ngày nay, kimono thường chỉ được sử dụng vào các dịp lễ tết. Phụ nữ Nhật mặc kimono phổ biến hơn nam giới, thường có màu và hoa văn nổi bật. Phái nam dùng kimono chủ yếu trong lễ cưới và buổi lễ trà đạo, và kimono dành cho nam giới thường không có hoa văn, và màu tối hơn.
Yukata là loại kimono mỏng mặc mùa hè, thường làm bằng vải mát như cotton. Khi đến onsen (suối nước nóng), người ta thường mặc yukata.

Xem thêm tại: http://vi.wikipedia.org/wiki/Kimono
Tôi nghe được từ một anh bạn kể câu chuyện về mối quan hệ Trung-Nhật khi hai nước đang có những xung đột, nước này bôi xấu nước kia. Câu chuyện nói về việc Trung Quốc xuyên tạc về ý nghĩa chiếc áo Kimono của Nhật Bản. Họ nói rằng, Kimono là trang phục bắt nguồn sừ sự dâm đãng của trai gái Nhật Bản. Để lý giải cho luận điểm đó, họ đưa ra một chứng cớ (mà tôi không rõ nguồn gốc) để cho thấy thời xưa con gái Nhật Bản rất thoải mái trong việc quan hệ nam nữ, hễ khi nào muốn là có thể tự do mà không sợ bị ai chê trách. Chính vì thế chiếc Kimono đã ra đời để đáp ứng "phong tục" này. Họ căn cứ vào cấu tạo của chiếc Kimono. (xin mời xem hình)

 - Áo rất rộng và dày: Để luôn luôn sẵn sàng cho việc quan hệ nam nữ, vừa để làm chăn đắp vừa kín đáo lại tránh những khi trời lạnh.
- Phần đai rất to: Đai áo không cần phải to như vậy, vì thế mà có lẽ nó sẽ được dùng làm gối cho các cuộc "mây mưa"
Cấu tạo áo Kimono
Một điều thú vị là các Geisha - kĩ nữ đều mặc Kimono, mọi sinh hoạt của họ dù là khi không tiếp khách cũng đều gắn liền cùng chiếc áo thùng thình này. Và quan sát hình dưới, chúng ta thấy rằng đúng là chiếc Kimono đã được "kiêm dùng" làm chăn để đắp. Riêng chi tiết này thực khiến người nghe bị thuyết phục

Các Geisha Nhật Bản
Tôi tự thấy kiến thức còn hạn hẹp, nghe được câu chuyện thấy rất thú vị, biết rằng họ đang bôi xấu hình ảnh của nhau, nhưng cũng không phải là không có lý và còn nhiều điều không giải thích được, bèn viết mấy dòng để mong được các trí giả góp ý để giải mối nghi hoặc này.

“Canh gà Thọ Xương” có thực sự là món súp gà hay không?

Blog người hiếu cổ - Thời gian gần đây, nổi cộm trên các phương tiện thông tin đại chúng là chuyện cô giáo dạy cho các em học sinh câu ca dao “Gió đưa cành trúc la đà/Tiếng chuông Trấn Vũ canh gà Thọ Xương” rằng: “Canh gà Thọ Xương là món ăn nổi tiếng, đặc sản của làng Thọ Xương”. Ngay khi tin này được đăng thì dư luận đã có những phản hồi vô cùng quyết liệt, rằng cô giáo dạy sai. Ngay sau đó tôi lại đọc được thông tin rằng cô giáo đó đã bị đánh nhập viện!!!

Tôi trên những hiểu biết cá nhân thì thấy quả thực cô giáo này không đáng phải chịu búa rìu dư luận lớn đến vậy. Vì sao? Vì cô ấy quả thực đã sai, nhưng cái sai đó lỗi không hoàn toàn ở cô ấy…
*
*        *
Dưới đây, tôi xin viết đôi điều để bạn đọc có cái nhìn đúng đắn hơn về bài “ca dao” có cụm từ “canh gà Thọ Xương” gây tranh cãi:
Bài “ca dao” gây tranh cãi trên thường được biết đến với nội dung:

“Gió đưa cành trúc la đà
Tiếng chuông Trấn Vũ canh gà Thọ Xương
Mịt mù khói tỏa ngàn sương
Nhịp chày Yên Thái mặt gương Tây Hồ”(A)
Hoàn toàn ta thấy đây là một bài tả cảnh Hà Nội với các địa danh: chùa Trấn Vũ, ngõ/huyện Thọ Xương, làng Yên Thái (An Thái), và Tây Hồ. Tuy nhiên ngay về vấn đề văn bản của bài này đã là vấn đề không rõ ràng rồi, các sách giáo khoa cũng như các sách lịch sử văn học tôi cũng chưa thấy ghi rõ. Vì vậy, việc xác định văn bản học của bài thơ này chủ yếu dựa vào những ghi chép của các thế hệ đi trước. Trong cuốn sách “Thăng Long – Đông Đô – Hà Nội” của Hoàng Đạo Thúy[1] có ghi chép khung cảnh Hà Nội:
"Những buổi sớm tinh sương mùa đông, khách dạn sương đi trên đường Thanh Niên không thấy trời, không nhìn rõ mặt nước, trên đầu cành lá rũ nặng giọt, bên trái lung linh ánh trăng úa hạ huyền; lúc ấy lòng lâng lâng, không ngâm mà cũng như ngâm câu thơ cổ: Phất phơ ngọn trúc trăng tà... Gà xóm bên hồ đã gáy, chuông hồi đã đổ dồn, đồng bào Bưởi đã dậy giã dó từ lâu. Mặt trời mới hé trên đê Yên Phụ mở ra một tấm gương phẳng lặng rắc phấn hồng
Qua mô tả của Hoàng Đạo Thúy, ta dễ dàng thấy được nội dung trùng khớp với bài thơ “Hà Nội tức cảnh” của Dương Khuê (1839 - 1902) với nội dung:
“Phất phơ ngọn trúc trăng tà
Tiếng chuông Trấn Vũ, canh gà Thọ Xương
Mịt mù khói tỏa ngàn sương
Nhịp chày An Thái, mảnh gương Tây Hồ”[2] (B)
Vì vậy, “canh gà” ở đây không nói đến món canh/súp gà. Tôi cũng nghe một số biện giải của nhiều người là nghe kể ngày xưa ở Thọ Xương cũng có món canh gà nổi tiếng, nhưng đa phần đều là tư biện và không có căn cứ.
Tạm gác chi tiết “canh gà”, ta đi vào tìm hiểu một chút diễn biến văn bản của bài thơ này.
Sách Tâm trạng Dương Khuê và Dương Lâm[3], Dương Thiệu Tống là cháu của Dương Khuê có ghi dòng nhận xét về câu lục mở đầu: "Có người đã sửa đổi câu thơ này là Gió đưa cành trúc la đà, nhưng có lẽ là sai vì làm mất đi ý nghĩa ẩn dụ của toàn câu mà chỉ có ý nghĩa tả cảnh mà thôi".
Vấn đề nảy sinh ở đây là: Ai đã sửa câu lục trong bài thơ này thành “Gió đưa cành trúc la đà”?
Tôi liên tưởng tới một bài thơ khác tả cảnh Huế khá giống bài thơ của Dương Khuê là:


“Gió đưa cành trúc la đà,
Tiếng chuông Thiên Mụ, canh gà Thọ Xương.
Thuyền về xuôi mái sông Hương,
Biết đâu tâm sự đôi đường đắng cay” (C)
Bài thơ này cũng đã được phổ thành nhạc trong bài hát “Thương về cố đô” của nhạc sĩ Châu Kỳ, khi đó bài thơ này đã được công nhận như một bài ca dao trong kho tàng Văn học dân gian Bình Trị Thiên (1987), nhạc sĩ Châu Kỳ chỉ dùng nó như một chất liệu sáng tác mà thôi. Một hồi tìm kiếm, tôi mới thấy hai câu thơ đầu xuất hiện trong cuốn hồi ký “Mười ngày ở Huế”[4], nói về quãng thời gian ở Huế của học giả Phạm Quỳnh. Trong đó có viết một đoạn tả cảnh Huế như sau:
“Gió đưa cành trúc la đà
Tiếng chuông Thiên Mụ canh gà Thọ Xương
Cả cái hồn thơ của xứ Huế như chan chứa trong hai câu ca ấy. Chùa Thiên Mụ là một chốn danh lam, có cái tháp bẩy từng, ở ngay trên bờ sông Hương, làng Thọ Xương thì ở bờ bên kia. Đêm khuya nghe tiếng chuông chùa với tiếng gà gáy xa đưa văng vẳng ở giữa khoảng giời nước long lanh mà cảm đặt thành câu ca cho con trẻ hát, ấy mới rõ cái tính tình của người xứ Huế.” (Phần IV)
Như vậy là học giả Phạm Quỳnh đã dùng ý tứ của thơ Dương Khuê để viết lại cho hợp với cảnh và địa danh ở Huế, có chùa Thiên Mụ và có làng chài Thọ Xương (còn có tên là Thọ Khương, Thọ Cương, Long Thọ). Chúng ta có thể đưa ra phán đoán:
-         Hoặc là Phạm Quỳnh viết dựa trên thơ Dương Khuê
-         Hoặc là sử dụng chất liệu văn hóa dân gian bản địa
Nhưng dù là trường hợp nào thì văn bản (C) cũng là một chi tiết quý giá.
Vì thế, bản (A) có thể được phán đoán bằng sự “lai” giữa hai bản (B) (C).
Cũng qua các chi tiết trên, mảy may không hề thấy chỗ nào đề cập đến món canh (súp) gà Thọ Xương. Hơn nữa, chúng ta cần hiểu logic bài thơ tả cảnh, đang có gió, có cành trúc, có tiếng chuông, có nhịp chày giã giấy, có mặt nước hồ long lanh, dẫu có thêm món canh (súp) gà vào cũng thật là vô duyên và không hợp lý.



[1] Cuốn đầu in bởi Hội văn nghệ Hà Nội năm 1969, tái bản nhân dịp kỷ niệm 1000 năm Thăng Long Hà Nội năm 2010
[2] Trích lại tài liệu theo bài của Vô Ưu trên http://www.baomoi.com
Dẫn theo Trần Trung Viên trong Văn đàn bảo giám, cuốn 3, NXB Nam Ký, Hà Nội, 1926; Mặc Lâm tái bản, Sài Gòn, 1969, trang 159; tài liệu do nhà phê bình Đặng Tiến cung cấp. Trong Thơ văn Hà Nội do Trần Huy Liệu chủ biên, cũng viết như vậy.
[3] Dương Thiệu Tống, Tâm trạng của Dương Khuê và Dương Lâm, Nxb. Khoa học Xã hội, HN, 2005.
[4] Quý vị độc giả có thể đọc toàn văn hồi ký “Mười ngày ở Huế” tại Blog của Phạm Quỳnh ở địa chỉ:
Hoặc: Phạm Quỳnh, Mười ngày ở Huế, Nxb. Văn học, H.2001