Hiển thị các bài đăng có nhãn Tiếng Việt. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Tiếng Việt. Hiển thị tất cả bài đăng

Phân tích một số từ biểu thị sinh thực khí nam giới trong cách gọi dân gian (tiếp)

Kính thưa quý vị độc giả, tại bài viết "Phân tích một số từ biểu thị sinh thực khí nam giới trong cách gọi dân gian" kì trước, chúng tôi đã đưa ra một số suy xét ban đầu về nguồn gốc của 1 số từ biểu thị sinh thực khí nam giới, tuy nhiên còn nhiều hạn chế. Hôm rồi, nhà nghiên cứu Trần Quang Đức có viết cho tôi một bài phân tích về nguồn gốc từ BUỒI (sinh thực khí nam) rất hay, xin đăng lại lên Blog người hiếu cổ để tiếp nối bài viết trước.

Do có vài người bạn hỏi về từ nguyên của một số từ trong tiếng Việt, đêm qua suy nghĩ miên man, chợt nhận ra từ BUỒI, sinh thực khí nam, với từ VÒI trong cụm vòi voi, vòi rồng, vòi nước có cùng nguồn gốc. Thứ nhất, về mối liên hệ ngữ âm giữa BUỒI - VÒI. 

1. BUỒI là biến âm của /bòi/. 
Từ điển Việt - Bồ - La của Alexandre de Rhodes, thế kỷ 16, ghi nhận /bòi/ cùng nghĩa với /cặc/, chỉ sinh thực khí của đàn ông. 

2. Theo lịch sử ngữ âm tiếng Việt, bộ phận phụ âm /v/ có nguồn gốc là phụ âm /b/. 
Một số từ trong tiếng Việt hiện đại còn phản ánh hiện tượng này, như: béo - véo, bấu - vấu, bú - vú, bùng - vùng, bổng - vổng v.v. Thứ hai, về mối liên hệ ngữ nghĩa giữa BUỒI / BÒI - VÒI. Cả hai từ đều có chung một số tính chất sau: 1. Độ dài; 2. Độ rủ; 3. Độ rỗng; 4. (+/-) Khả năng hút hoặc phun nước. Tóm lại, với các mối liên hệ kể trên, có thể khẳng định BUỒI / BÒI và VÒI là từ đồng nguyên (cùng nguồn gốc).

Chú thích ảnh:
1. Hình giải phẫu sinh thực khí nam.
2. Chữ Nôm: bòi / vòi (cùng một mã chữ).
3. Vòi nước máy.
4. Con vòi voi.
5. Con voi.
6. Vòi rồng

Nguồn gốc của từ “Mặc cả”

Blog người hiếu cổ - Trong giao dịch, bao giờ cũng có khâu mặc cả. Chúng ta giờ ai cũng hiểu rằng “mặc cả” tức là sự thuyết phục của người mua đối với bán để điều chỉnh giá thành sao cho hợp lý. Các chị em đi chợ không ai là không mặc cả, người bán cũng vì thế mà phải dùng lý luận để tránh bị bán lãi ít, thế nên mới gọi là “chao chát”. Xưa nay ai cũng nói gái đi chợ phải biết chao chát cũng là ý này, chứ tuyệt nhiên không dùng từ “chao chát” để ám chỉ sự đanh đá chua ngoa. Vì tính võ đoán của ngôn ngữ nên ai cũng hiểu nghĩa của “mặc cả”, thế nhưng nguồn gốc của nó thì chắc không phải ai cũng hiểu rõ ràng.
“Mặc cả” là từ mượn từ âm tiếng Quảng Đông Trung Quốc, chính là từ 摸價.
Theo “Khang Hy tự điển” thì hai chữ trên sẽ được đọc thành “mạc giá”. Phiên âm La-tinh của âm Quảng Đông là “mok3 gaa3” (đọc là “moọc kả”).
Mạc: Chạm tay vào để dò xét.
Giá: Giá thành, giá trị.
Mạc giá: Chạm tay vào để dò xét giá.
->Nghĩa của từ “mặc cả” (mạc giá) chính là cách thức thực hiện hành động.
Xin mời tham khảo ảnh dưới đây:
hai người đàn ông mặc cả bán gia súc
Hai người đàn ông Trung Quốc đang mặc cả khi bán dê
Như ảnh trên, hai người đàn ông đang mặc cả tiền bán dê, họ không nói gì cả, mà chỉ chạm tay vào nhau. Chạm tay chính là mật mã để thương thuyết về giá cả. Chạm tay và họ dùng ngón tay để chỉ vào các đốt ngón tay để tượng trưng cho giá mà người đó đưa ra. Vì thế, hình thức này khác xa với việc chị em nước ta đi chợ mặc cả bằng miệng.
Chính vì hình thức của việc mặc cả bằng việc chạm tay làm hiệu, nên dân gian Trung Quốc còn gọi hình thức mặc cả là "niết mã" (mật mã khi chạm tay vào nhau). Về "niết mà", có thể thấy trong một số sách đề cập tới như cuốn tiểu thuyết trường thiên "Sáng nghiệp sử" của Liễu Thanh 柳青, hoặc cuốn tiểu thuyết "Tam lí loan" của Triệu Thụ Lý 赵树理 có viết một đoạn: 
"这时候,给 丁未 的驴当卖主的是个十五六岁的孩子, 李林虎 正和他对着袖口捏码,小孩摇着头说:‘不卖!不卖!" (Khi ấy, có đứa trẻ mười lăm mười sáu tuổi đưa cho Đinh Mùi con lừa để bán, Lý Lâm Hổ đang đưa tay vào ống tay áo của hắn ra hiệu "niết mã" (mặc cả). Đứa bé lắc lắc đầu nói "Không bán đâu, không bán đâu".)
Hai người mặc cả bán gia súc
Dân gian Trung Quốc gọi mặc cả là "niết mã"

Như vậy, vốn dĩ mặc cả người ta không dùng lời để thương thuyết, mà chính là dùng kí hiệu để thương thuyết. hình ảnh chị em phụ nữ ra chợ mua hàng rồi cãi nhau thực ra cũng là một dạng thương thuyết giá cả, nhưng chúng ta cần phân biệt rõ, nó không phải là mặc cả. Tuy nhiên, ngày nay ngôn ngữ biến đổi, nhiều từ đã biến đổi chức năng và ý nghĩa trong ngôn ngữ nên việc chúng ta hiểu từ mặc cả như ngày nay cũng là chuyện bình thường. Vì vậy, tôi viết mấy dòng trên để hiểu rõ hơn nguồn gốc của nó.

"Thiến" và "hoạn" giống hay khác nhau?

Quan hoạn thời nhà Thanh (Trung Quốc)
Nguồn: Wikipedia Việt Nam
Blog người hiếu cổ - Việc triệt đường sinh sản bằng cách cắt đi phần một phần cơ quan sinh dục của người, cũng như của gia súc, gia cầm thường được diễn tả bằng một trong hai từ là "Thiến" hoặc "Hoạn". Chúng ta vẫn được nghe các cụm từ như: Quan hoạn, hoạn lợn, thiến chó, thiến mèo...Tuy nhiên, cách sử dụng 2 từ này có phần không được nhất quán, ta quan sát như dưới đây:Một số hình ảnh về các hoạt động thiến hoạn vật nuôi trong sách "Kỹ thuật người An Nam" của Henry Orger, cùng một cuốn sách nhưng có chỗ ghi là "thiến", chỗ ghi là "hoạn". Ví dụ:


Hoạn gà

Người hoạn lợn

Thiến chó

Thiến trâu
Qua quan sát hình vẽ, tôi tạm thời có suy nghĩ chủ quan:
- 2 trường hợp "hoạn gà" và "hoạn lợn": có 2 người giữ cho lợn và con gà để cắt.
- 2 trường hợp "thiến chó" và "thiến trâu": có 1 hoặc nhiều người (nhưng không vẽ) cắt, nhưng lại không có người giữ, mà thay vào đó là việc buộc chân con trâu hoặc bó con chó lại để tiện việc cắt.
=> Như vậy phải chăng hoạn là 1 người giữ và 1 người cắt, còn thiến là có sự trợ giúp của công cụ?

Xét trên góc độ chữ viết và ngữ âm: 

1. Chữ Nôm 'thiến' lấy chữ  'sấn' để chỉ âm đọc. 
2. Từ 'hoạn' trong 'hoạn quan, hoạn lợn' nhiều khả năng là từ gốc Hán . Chữ hoạn  (bệnh hoạn) là cách dùng giả tá chữ đồng âm thôi. Thiến trâu được gọi là Hoạn. (宦牛:阉牛。  朱权 《臞仙肘后经·蚕丝六畜类》:“騸马、宦牛、羯羊、阉猪、鐓鸡、善狗、浄猫。”宦:(8) 阉割 [castrate]。如:宦牛(阉割的牛) zdic.net. Hoạn quan quan hoạnchỉ người thiến bộ phận sinh dục vào hầu trong cung. 
=> Có khả năng "Hoạn" là từ gốc Hán và "Thiến" là tiếng Việt.

Từ điển Việt-Bồ-La của Alexandre de Rhodes thế kỷ 17 cũng đã ghi nhận từ "Thiến" và  "Hoạn"

Thiến: thiến, hoạn. Gà thiến: gà trống bị thiến.
Hoạn lạt: hoạn, thiến. Thiến, cùng 1 nghĩa.
Từ những luận điểm trên, về cơ bản chúng ta hiểu rằng Thiến và Hoạn là như nhau. Điểm khác nhau ở chỗ có thể Hoạn là từ gốc Hán, còn Thiến là từ tiếng Việt. Còn có hay không  các trường hợp gọi lúc là Thiến lúc là Hoạn thì chưa thể giải thích một cách đầy đủ.


Phân tích một số từ biểu thị sinh thực khí nam giới trong cách gọi dân gian.

Blog người hiếu cổ - Bài viết dưới đây,  xin đưa ra một nghiên cứu sơ bộ về nguồn gốc của các từ biểu thị sinh thực khi nam giới trong cách gọi dân gian (thông tục). Trước tiên xin có một đoạn dẫn giải về tục thờ sinh thực khí và tín ngưỡng phồn thực như sau:
Nam nữ giao hoan - Bảo tàng DTH
Hình 1: Tượng nam nữ giao hoan tại Bảo tàng Dân tộc học
Đền hoan lạc - Ấn Độ
Hình 2: Tượng nam nữ giao hoan tại "đền hoan lạc"

Tín ngưỡng phồn thực(1) là tín ngưỡng được sùng bái từ rất lâu đời và mang tính toàn thế giới. Chúng ta ngày nay vẫn còn thấy được rất nhiều hình vẽ, họa tiết hoặc tượng và các hoạt động mang tính nghi lễ liên quan đến văn hóa phồn thực. Có thể dẫn chứng một số ví dụ sau:
Theo tín ngưỡng phồn thực của Ấn Độ, Nê Pan (hoặc một số nước khác như Chăm Pa), người ta gọi sinh thực khí của người nam là Linga, sinh thực khí người nữ là Yoni, người ta coi đó là 2 vị thần, là nguyên lý khởi nguyên của vũ trụ (âm - dương).
Tại Việt Nam, tục thờ sinh thực khí ngày nay vẫn còn được lưu giữ tại các hội lễ mật tại miền Bắc, cùng với nghi thức “Linh tinh tình phọc” , hai vật tượng trưng này luôn được cất giữ rất trang trọng.
Nam giới tượng trưng cho dương khí, và sinh thực khí người nam tượng trưng cho 1 trong 2 nguyên lý để hóa sinh vạn vật. Người Nhật Bản rất coi trọng sinh thực khí nam giới, chính vì thế có rất nhiều lễ hội thờ và rước sinh thực khí nam tại đây. Điển hình là lễ hội Kanamar-Lễ hội rước sinh thực khí đàn ông.

Tôi xin đi vào chủ đề chính của bài viết:
Sinh thực khí người nam giới (tức bộ phận sinh dục nam)  trong vốn từ dân gian rất phong phú, có rất nhiều cách gọi. Nhưng đúng với “tính võ đoán” của ngôn ngữ, ngày nay chúng ta chỉ biết từ đó nghĩa là như thế, nhưng không hiểu vì sao nó lại được dùng với nghĩa như vậy. Chính vì thế, nhân đọc về nghi lễ rước dương vật của người Nhật, tôi xin đưa ra mấy suy nghĩ về nguồn gốc của các từ biểu thị sinh thực khí nam giới trong cách gọi thông tục.
Xin liệt kê những từ dùng trong dân gian (thông tục) với nghĩa chỉ sinh thực khí nam giới:
- Buồi
- Cặc
- Dái
- Nõ
Ta tìm hiểu từ “Cặc”: Từ này thực ra có liên quan đến từ “Cọc” (chữ Nôm) và “Cực” (chữ Hán). “Cực” có nghĩa là cái cột cao nhất của ngôi nhà, nôm na ta hiểu là cái cột. Mà cột với “cọc’ cùng tính chất, nên sau này người ta dùng chữ “cực” cũng với nghĩa là “cọc”. Người xưa chơi chữ rất hay, “cọc” đọc lái đi để chỉ sinh thực khí nam giới. Như vậy ta thấy ở đây có một chuỗi biến đổi khá logic:  Cực – Cột – Cọc – Cặc
Vì thế mà khi đọc bài thơ “Quả mít” của Hồ Xuân Hương, ta thấy rất rõ ẩn ý của bà:
“Quân tử có thương thì đóng cọc
Xin đừng mân mó nhựa ra tay”
Lại có một minh chứng nữa cho luận giải “Cặc – Cọc”, đó chính là cụm từ “Cặc bần” của miền Tây Nam Bộ. Có câu:
“Nước chảy, cặc bần rung bây bẩy
Gió đưa, dái mít giãy tê tê”
("Bần” là một loài thực vật. Học giả Vương Hồng Sển viết về cây bần như sau: “Bần là cây gỗ tạp, mọc dựa mé nước, rễ nhiều, bám theo đất phù sa mà làm cho đất có phần vững chắc không trôi khi sóng đánh. Cây bần có lá xanh rất đẹp, ban đêm đom đóm đậu nhiều trông rất xinh. Có trái, ăn với mắm sống rất ngon. Chúa Nguyễn Ánh được nếm qua, rất hài lòng và ban cho tên chữ là Thúy Liễu. Rễ của bần dùng làm nút ve được. Phân ra có loại bần-chua, trái lớn; và bần-ổi, trái nhỏ hơn và tương đối ít chua hơn. Xưa nay, nghề uốn và chơi kiểng, phàm cây kiểng lão và gốc bần quá già, khi nào gốc dẽ ra ngoài bờ ngoài nước thì gọi là nó chiếu thủy, ý nói bóng cây ấy làm dáng và dòm xuống nước”)(2)  
Phần nhô lên chính là “cọc bần”, nhưng người Tây Nam Bộ gọi là “Cặc bần” chính vì hiện tượng mà tôi đã lý giải ở trên.
***
Trong từ điển tiếng Việt, ta bắt gặp nhiều cụm từ như: Dái mít, dái tai, dái khoai,… Có một đặc điểm chung, các từ đó đều chỉ những bộ phận mà có nhô ra hoặc lồi ra ngoài. Như “dái tai” chỉ phần thịt tai chảy xệ xuống; “dái khoai” chỉ củ nhánh sinh ra theo dây khoai; “dái mít” chỉ phần quả mít non nhô ra và chưa thành hình quả(3)
Vậy những thứ gì nhô ra và có dáng lồi hoặc trĩu xuống thì được gọi là “dái”, vì thế chúng ta đã hiểu vì sao sinh thực khí nam giới lại được gọi là “dái” phải không nào


Tôi từng nghe một câu ca dao “Yêu nhau hai cái nõ nường”, “nõ” tức là sinh thực khí nam giới, còn “nường” là sinh thực khí nữ giới.
Lại thấy thêm từ “nõ điếu” tức là lỗ để cho thuốc lào vào hút ở điếu cày
Cách giải thích cho từ “nõ” với từ “dái” là giống nhau, những phần nhô ra ngoài thì gọi là “nõ”.

Còn từ “Buồi” thì sao? Thực ra từ này tôi cũng chưa thực sự có một cách giải thích hợp lý. Tuy nhiên, dựa vào âm đọc và tự dạng của chữ Nôm, tôi đưa ra một giải thuyết:
“Buồi” gần âm với “Bùi” 裴, mà từ “bùi” tôi có phân tích tại bài viết “Thâm nho nhọ đít: Nỡ lòng để con cháu không có quần áo!”: “Bùi” tức là “phi y" (không có quần áo), vì thế mà người xưa dùng nghĩa chơi chữ đó để chỉ sinh thực khí nam giới chăng?
Giả thuyết này xin được các học giả cùng bạn đọc góp ý để người viết được mở mang kiến thức. Xin chân thành cảm ơn!
***
Tựu trung lại, tôi vừa đưa ra một số phân tích để sơ lược nêu ra nguồn gốc của các từ ngữ thông tục chỉ sinh thực khí nam giới để bạn đọc tham khảo. Biển học vô bờ, mọi người còn nhiều kiến thức rộng rãi hơn nữa, bài viết ở mức sơ lược, Blog người hiếu cổ rất mong được sự rộng lượng châm chước.
______________________________________
(1) Phồn thực: có nghĩa là sinh sôi nảy nở. Tín ngưỡng phồn thực hiểu đơn giản là sự sùng bái hoạt động tình dục nam nữ, coi đó là mầm mống của sự duy trì và phát triển nòi giống. Tín ngưỡng phồn thực thể hiện rõ nhất trong việc thờ sinh thực khí (tức bộ phận sinh dục) của nam và nữ và các nghi lễ tượng trưng cho sự giao hợp nam nữ.
(3) Huỳnh Tịnh Paulus Của, Đại Nam quấc âm tự vị, Sài Gòn, 1895, trang 215