Tư liệu về Hải Quận công - Tiến sĩ Phạm Đình Trọng trong gia phả
Blog người hiếu cổ - Đồng nghiệp của tôi là NCS Nguyễn Đức Toàn, hiện đang công tác tại CHLB Đức, anh là một cán bộ nghiên cứu rất năng nổ của Viện nghiên cứu Hán Nôm - Viện Khoa học Xã hội Việt Nam. Xa Tổ quốc, nhưng lòng say mê với các văn bản Hán Nôm vẫn luôn tràn đầy trong anh. Hôm qua anh có gửi cho tôi email được đính kèm một bài viết, và nhờ tôi đăng trên Blog người hiếu cổ để cung cấp cho bạn đọc phần gia phả viết về Hải Quận công Phạm Đình Trọng cùng với sự tích, hành trạng của ông, thêm bài văn tế theo dụ triều đình của Nguyễn Nghiễm, của tướng sĩ thuộc hạ bản doanh tế ông, thơ bình của Bùi Huy Bích, lời chế phong của Ngô Thì Sĩ, xin góp phần tư liệu cho nghiên cứu. Đồng thời, tác giả còn trích phụ lục toàn văn chữ Hán để bạn đọc tiện tham khảo. Dưới đây là bài viết toàn văn:
Tư liệu về Hải Quận công -
Tiến sĩ Phạm Đình Trọng trong gia phả
Phạm Thị Hà Châu
Nguyễn Đức Toàn
Viện nghiên cứu Hán Nôm
Phạm Đình Trọng(1714-1754), nhân vật lịch sử ở thế kỉ XVIII. Đỗ Tiến sĩ năm Kỷ Mùi niên hiệu Vĩnh Hựu 5 (1739) đời Lê Ý Tông. Là người có công với triều đình Lê-Trịnh trong việc bình ổn các cuộc nổi dậy của phong trào nông dân Đàng Ngoài. Đặc biệt sự đối đầu giữa ông với Thủ lĩnh khởi nghĩa Nguyễn Hữu Cầu lưu truyền thành một giai thoại. Đã có nhiều nhận định về tài năng đức độ của ông được các sử gia phong kiến ghi nhận. Là người xuất thân khoa bảng, nhưng sự nghiệp của ông vẻ vang nhiều trên con đường binh nghiệp, rất được chúa Trịnh Doanh tín nhiệm. Cuộc khởi nghĩa của Nguyễn Hữu Cầu gây chấn động, vì Hữu Cầu dũng mãnh hơn người, táo bạo quyết liệt. Quan quân triều đình đều sợ, duy ông không sợ. Chính sử còn ghi: “chỉ một mình Đình Trọng thề quyết chí giết cho bằng được, nên triều đình vững lòng dựa vào Đình Trọng. Đình Trọng cầm quân có kỷ luật, hễ trận nào Hữu Cầu gặp Đình Trọng liền bị thua. Các tướng lúc bấy giờ, Hữu Cầu chỉ sợ có Đình Trọng mà thôi”[1], “Trịnh Doanh nhận thấy Hữu Cầu vốn sợ Đình Trọng, nên sai Đình Trọng đi đánh”[2]. Khi làm Trấn thủ Nghệ An, ông theo chỉ dụ đề xuất cải cách sửa đổi các tệ hại cho dân vùng này[3]. Ông mất khi đang tại nhiệm lúc mới 40 tuổi[4], triều đình mất đi trụ cột. Năm 2010, đã có cuộc “Hội thảo khoa học về thân thế và sự nghiệp của tiến sĩ Phạm Đình Trọng”. Trên Tạp chí Hán Nôm cũng đã có 2 bài viết liên quan đến Phạm Đình Trọng[5]. Chúng tôi trong quá trình nghiên cứu đã được tiếp cận tập gia phả của dòng họ Phạm, trong đó có những tư liệu Hán Nôm liên quan đến cụ tổ của dòng họ, Hải quận công Phạm Đình Trọng. Gia phả được biên tập, chép lại dưới thời Nguyễn, một số điểm nhầm lẫn cần được đính chính. Như: năm Tân Sửu bắt được Nguyễn Cừ, Nguyễn Tuyển. Đúng can chi theo sử là năm Ất Sửu 1745; Nguyễn Hữu Cầu có hiệu là Quận He, bị chép thành Quận Hẻo, là hiệu của Nguyễn Danh Phương, người làng Hẻo, một thủ lãnh khởi nghĩa cũng bị bắt cùng thời gian ấy[6]; Hay chép Phạm Đình Trọng đỗ Tiến sĩ năm 16 tuổi; mất thọ 50 tuổi, trong khi ông đỗ năm 25 tuổi, mất năm 40 tuổi; Ngoài ra, gia phả biên tập dưới thời Nguyễn nên có tư tưởng bài Trịnh tôn Lê, có chỗ chép về chúa Trịnh bị thay bằng vua Lê. Tuy vậy, giá trị tư liệu của tập gia phả vẫn được ghi nhận. Có ý nghĩa bổ sung cho nghiên cứu về nhân vật lịch sử này. Chúng tôi xin giới thiệu và trích dịch trang nguyên văn phần chép về cụ Triệu tổ Hải quận công Phạm Đình Trọng. Trong gia phả, phần Tượng đầu đoán tụng ký và Văn tế của Trần Danh Lâm theo nguồn văn bản khác đã được Nguyễn Minh Tường, Đỗ Lan Phương giới thiệu[7], chúng tôi xin tham khảo lược dịch. Bài giới thiệu này bổ sung thêm về sự tích, hành trạng của ông, thêm bài văn tế theo dụ triều đình của Nguyễn Nghiễm, của tướng sĩ thuộc hạ bản doanh tế ông, thơ bình của Bùi Huy Bích, lời chế phong của Ngô Thì Sĩ, xin góp phần tư liệu cho nghiên cứu.
Phạm gia phả chí tiền biên.
Triệu tổ Hải quận công Phạm Đình Trọng. Người Khinh Dao, Giáp Sơn, Hải Dương. Là chắt của cụ Thừa tuyên Phạm Bỉnh Di thời Lê Hồng Đức. Cụ Phạm Bỉnh Di sinh ra cụ Phạm Đình Nguyên. Cụ Phạm Đình Nguyên thi đỗ khoa Hoành từ đời Quang Thiệu, quan làm Hàn lâm Học sĩ. Cụ Phạm Đình Nguyên sinh ra cụ Phạm Đình Giáp. Cụ Phạm Đình Giáp đỗ Hương cống đời Nguyên Hòa. Sau lại theo Trịnh Chiêu Tổ[8]đánh nhà Mạc, được ban chức Hữu Tham quân. Cụ Phạm Đình Giáp lấy vợ là con gái Lê chỉ huy người Khoái Châu, sinh ra hai người con trai. Người con trai lớn tên là Phạm Đình Bình. Năm Vĩnh Hựu 1 (1735), Phạm Đình Bình thi đỗ Hương cống, làm quan Hàn lâm. Triệu tổ là con trai thứ hai.
Ban đầu, Lê phu nhân nằm mộng thấy thần Ngũ Hồ[9] vào nghỉ, từ đó có thai rồi sinh ra ông. Ông tướng mạo tuấn tú, nghiêm trang như thần. Thuở còn nhỏ khi chơi, ông thường tập bày các đồ tế lễ, tập tành lễ nghi. Lại thường tự ngâm nga rằng: “Trời chẳng già đất chẳng già. Năm hồ bảy miếu một mình ta”[10]. Quan Tham quân mỗi lần trông thấy thường lấy làm kì. Sau này, có một người Trung Quốc xem tướng cho ông, thấy tướng mạo trông giống tượng thần Ngũ Hồ, thầm cho là kì dị. Lại dò hỏi, biết rằng giờ ngày tháng năm sinh của ông đúng vào thời[11]gian miếu thần Ngũ Hồ xảy ra sự biến động lạ. Mới hay ông là do thần Ngũ Hồ giáng sinh. Khi 25 tuổi, ông tham gia kì thi tiến sĩ năm Vĩnh Hựu 5 đời vua Lê Ý Tôn[12](1739). Khảo quan Nguyễn Trọng Quát xem văn ông đã dự biết triều đình tìm được người tài. Năm Cảnh Hưng 1 (1740), ông được ban chức Giám sát Ngự sử. Có hôm, vào trầu trở về, lưu nghỉ lại ở Kim Thành, xã Hoàng Xá. Có bắt được trùm giặc là Quận Gió[13]trốn dưới đống củi. Ông lệnh sai giải về nộp, được ban thưởng ba trăm quan tiền.
Khoảng trong năm Ất Sửu (1745)[14], ông làm Hiệp đồng kiêm Phòng ngự sứ, lần lượt bắt được giặc Nguyễn Cừ, Nguyền Tuyển[15] ở núi Ngọa Vân. Khi đó, trong nước đạo tặc nổi lên như ong. Trong đó có Nguyễn Cầu[16]là ghê gớm hơn cả. Cầu là người ở Lôi Động, Thanh Hà, Hải Dương, tục gọi là Quận He[17]. Tương truyền đó là thần Hải Ngư thác sinh. Trước đây, Cầu cùng với ông cùng học với thầy Tiến sĩ họ Đặng ở Chương Đức. Nguyễn Cầu thường bài chiếm được hạng ưu, tính hay ngạo ngược tự phụ tài năng của mình, xem thường những người đồng lứa. Đặng Tiến sĩ vì thế thưa nhạt với Cầu mà lại quý trọng ông. Vì lẽ cả sự học và phẩm hạnh của ông đều tốt. Cầu do đó sinh lòng đố kị, dần thành ra đối địch với ông. Thường lấy văn từ để khiêu khích, nhưng ông chỉ coi sơ qua không để bụng. Khi vào kì thi Hương, Cầu không đỗ, nhưng thấy ông đoạt giải. Cầu lại càng bất bình không làm gì được. Sau ông lại lừng lững đỗ đại khoa. Cầu chất chứa lòng đố kị thành sự thù hằn, liền kết bè đảng làm loạn ở Nam Sách, đào phần mộ tổ tiên ông, bắt giữ mẹ đẻ của ông, lại muốn bắt được ông mới cam tâm. Cầu có dũng lực như thần, mỗi khi lâm trận thường cầm đao lên ngựa lao thẳng về phía trước không ai đương địch. Người đương thời thường gọi Cầu là Hạng Vương nước Nam[18]. Quan quân mỗi lần lâm trận đều bị Cầu đánh bại. Ông phụng mệnh thống lĩnh thủy quân đóng ở bờ biển Đông Triều, dùng kì binh, bày thế hiểm yếu, thề quyết không đội trời chung với giặc. Có hôm, ông ngồi trong khoang thuyền, Cầu liền lặn xuống nước bơi đến chỗ thuyền đậu rồi nhảy lên thuyền ông. Ông nhanh chóng đến cửa khoang hô lớn rằng: “Ta đã chém được đầu Quận He”. Các tướng sĩ nghe tiếng đều đã nhất loạt chạy xô lại. Cầu sợ, nhanh chân nhảy xuống nước, lặn xuống dưới mái chèo. Ông lệnh tướng sĩ cầm giáo đâm thẳng xuống nước. Cầu ngay lập tức liền trốn mất. Hôm khác, ông ghé qua bến sông, giặc Cầu bất ngờ đem quân đến vây. Ông dẫn thủ hạ gia sức đánh, giết chúng khá nhiều. Cầu mới phải rút quân về. Vua Hiển Tôn nghe tiếng, khen ông dũng tráng, chiếu phong là Dao Lĩnh hầu.
Khoảng năm Nhâm Tuất (1742), ông được triệu về kinh làm chủ khảo thi Hội[19]. Việc xong, ông lại cùng Tuân Quận công lĩnh binh đi dẹp giặc. Vua Hiển Tôn chiếu hỏi về việc quân cơ, ông ứng đáp minh bạch đâu vào đấy. Nhà vua vui mừng, gia phong ba cấp, ban thưởng ba trăm quan tiền.
Lúc bấy giờ, giặc Cầu chiếm cứ Đồ Sơn, với thuộc hạ 18 người đều xưng là quận công, tinh binh có hơn ba vạn. Lại xây nhà Hoàng ốc, dựng cờ Tả đạo[20]; đắp thành đào hào nghiễm nhiên lập nước chống nghịch. Nhân dân ven biển đều chấn động. Ông thống lĩnh quân tiến thẳng đến Kinh Môn. Lệnh cho ba quân tìm nơi cao hạ trại, ngầm lệnh cho thủy quân cắt lối biển tuyệt đường lương thực của giặc. Lại cho quân đặt pháo trên đỉnh núi bắn vào đồn giặc. Quân giặc không đề phòng, bị đánh bất ngờ mà tự vỡ tan. Cầu liền bỏ thành chạy về Kinh Bắc. Ông lại chỉ huy quân truy đuổi, đánh bại chúng ở Thương Giang. Nghe tin thắng trận, vua Hiển Tôn vui mừng, ngự bút viết bốn chữ đại tự “Văn võ toàn tài” ban cho[21], đồng thời thưởng mười lạng vàng. Ông lĩnh thưởng tạ ơn, luôn lấy việc bình giặc dã làm trách nhiệm[22]của mình. Khi ấy, giặc Cầu bị thất bại nhiều lần, binh lính ít, sức cùng kiệt, có mưu tính chạy trốn nơi xa. Một hôm, sai người đưa thư cho ông. Ông mở xem thấy có một vế đối: “玉藏一点出为主入为王/ Kĩ càng ngọc báu, khi đã lộ, ra thì làm chúa, vào thì xưng vương”. Tỏ cái lòng tự đại như vậy đấy[23]. Ông bèn trả lời lại rằng “土截半横顺者上逆者下/ Đất xẻ nửa bên, theo ý trời, thuận đấy là lên, nghịch đấy là xuống”. Có ý coi Cầu là giặc phản nghịch[24]. Cầu hổ thẹn.
Năm Cảnh Hưng 10 (1749), Cầu trốn vào Nghệ An, kết bè đảng ở vùng Thanh Hóa. Ông cùng với một người trong họ là Viêm Thọ hầu Phạm Đình Sĩ[25] dẫn quân tiêu diệt chúng. Qua hơn mười trận giao chiến, mới bắt được Cầu ở Quỳnh Lưu, đóng cũi áp giải về kinh. Trong khoảng mười năm Nguyễn Hữu Cầu tác loạn đến giờ, ông rong ruổi chiến trường, nhung mã gian nan có thể thấy được. Sau khi khải hoàn, vì có chiến công mà được tăng lên chức Thượng thư Bộ binh, gia phong hàm Thiếu bảo, sắc phong Dương Vũ Tuyên Lực công thần, Hải Quận công, được ban ruộng thế nghiệp 150 mẫu.
Ngày trước, ở châu Vạn Ninh có bến Hồng Đàm[26]là một nơi hiểm yếu của biển Đông, thường có thổ phỉ tụ tập bè đảng cướp bóc thương lái. Trải qua nhiều năm, Tổng đốc Quảng Châu cùng Trấn thủ Yên Quảng[27]nhiều lần hợp sức đánh, nhưng không trừ được. Ông phụng mệnh đi tuần tra vùng biển, dùng kế đánh úp tận sào huyệt, bắt sống kẻ cầm đầu thổ phỉ cùng đồ đảng 70 tên, đóng cũi áp giải về Quảng Đông. Ông lại đích thân đến tận Long Môn[28] cùng gặp mặt quan Trấn thủ. Người Trung Quốc thấy ông đều khen ngợi không ngớt, tiếc rằng ông tài lớn sinh ra ở nước nhỏ, bậc chính nhân quân tử mà phải phụng sự quyền thần[29]. Sau đó Tổng đốc Quảng Đông đem việc này tâu với vua nhà Thanh. Vua nhà Thanh cũng khen ngợi, sai sứ ban cho ông mười lạng vàng và một trăm tấm lụa Tàu, đồng thời ban cho hàm Thượng thư. Do đó người đương thời thường gọi ông là Lưỡng quốc Thượng thư.
Năm Cảnh Hưng 12 (1751), ông phụng mệnh đến cai quản đất Nghệ An, kiêm quản châu Bố Chính, cai trị dân chúng có nhiều công tích. Ông từng phân định một vụ tranh tụng[30].
Quan Tham tụng Kiều Quận công Nguyễn Công Thái[31], vốn là liêu hữu của ông. Khi Nguyễn công về trí sĩ, ông có thơ tặng Nguyễn công rằng:
Khuê chương danh giá khắp Nam thiên,
Gặp gỡ lòng ưa cá nước duyên.
Vâng bổng hai vầng trên mặt biển,
Rạng ngời tám cõi chiếu mây xuyên.
Tể tướng vững ngôi triều đình trọng,
Quy nhàn hương xã sướng vô biên.
Xuất xử hành tàng thời xoay vận.
Trụ nước cao trông bậc huân hiền.[32]
Văn chương ông hùng vĩ, ngâm vịnh khá nhiều, đại lược được chép tường tận trong Hoàng Việt cổ văn[33]. Ở đây không chép hết được. Năm Cảnh Hưng 15 (1754), ông mất ở tại trấn sở. Vua Hiển Tôn thương tiếc, sai quan đến dụ tế, lệnh cho Tham tụng Nguyễn Nghiễm[34]soạn tế văn rằng:
“Ô hô, núi Hoành Sơn có thể mài gươm, sông La Hà có thể rửa giáp. Non sông còn mãi mà ông giờ ở đâu!. Cổ nhân nghe tiếng khánh thì nhớ tưởng bề tôi giữ biên cương. Lòng ta thật cảm khái. Ông một thân khí đảm, bụng chứa giáp binh. Hơn mười năm sương tuyết xông pha, đốc sát chẳng từ gian khó. Trải trăm trận bạt núi băng sông, cơ đồ lớn còn ghi sách sử. Nghìn chung thấm nhuần chưa báo. Vạn dặm rong ruổi càng thêm. Mỗi bàn, trọng ký Trường Thành, còn hẹn tiếng trung nghĩa triều Đường[35]; Đồn xa Ngũ Trượng[36], báo đèn tàn tướng quân nhà Hán. Cửa dinh hàng liễu mượt mà, cờ mao quân lệnh truyền vang. Ta mới cảm hoài nỗi nhớ trong bài thơ “Thái dĩ”[37], ông sao nỡ bỗng chốc đã đến nơi ước hẹn. Nhớ ông phong thái hùng hồn, lẫm liệt giặc khiếp như gió lạnh. Nghĩ ông lòng trung son sắt, ngưỡng trông gương sáng trời cao. Buồn thay, tiếc thay. Nghĩa lớn quân thần trường tồn vạn cổ. Sai quan dụ tế, mong ông hâm hưởng”.
Quan Đốc thị châu là Trần Danh Lâm[38] cũng đến tế[39]. Tướng hiệu trong bản doanh cùng trí tế rằng:
“Ô hô ! Đời người như khách quán, thế sự tựa cờ bày. Bùi Tấn Quốc tu gì, ngoài bảy mươi còn thêm tuổi thọ[40]; Quách Phần Dương phúc lớn, hơn tám chục vẫn hưởng niên cao[41]. Ôi ! Tướng công ra đi, thực than thiên đạo chẳng công bình. Cội Cam đường mưa tưới, ba năm như còn thấy Thiệu công[42]. Liễu mảnh tuyết sương, bốn vách như tướng Chu còn sống[43]. Truy tưởng trần tích một thời, còn lưu muôn thủa tiếng thơm. Giáo yên cung áo, nhện giăng thêu loạn; Lầu thuyền đài các, chim chóc kêu thương. Thương thay ngậm nỗi sầu Tùng Nhạc, mênh mang niềm hận uất biển khơi[44]. Các chư tướng chan hòa giàn dụa, theo châu quận gần vái đài tinh. Khi năm xưa dưới trướng hạ đàm binh, vẻ ôn tồn như đó. Ngày hôm nay giữa dong quan đường đưa tiễn[45], thảng thốt sự đi xa. Hằng nhớ công đức bao dung, chịu khôn xiết tình chia sầu thảm. Lễ bạc một giỏ, nơi âm cách thấu đạt mồ sâu[46]”.
Sau khi ông mất, người địa phương nhớ công đức lập đền ở núi Hương Càn huyện Kì Hoa[47], Nghệ An. Sau này, Kế Liệt hầu Bùi Huy Bích[48]kế quản trị lí Hoan Châu, yết kiến đền thờ ông và có đề thơ rằng:
Văn võ toàn tài vượt quá phần.
Từng nơi sử quán chép danh thần.
Chưa bàn sau khuất còn lưu mãi.
Mà lúc sinh tiền đã như thần.
Một tấm lòng trung ngang vũ trụ.
Mười năm đàn kiếm định phong trần.
Làm sao cũng mũ nhà Nho ấy.
Chỉ có tầm thường mấy tiểu nhân.
Chúa Trịnh cũng sai quan trí tế, truy tặng ông là “Thái phó Thượng đẳng Phúc thần”, lệnh nhân dân lập đền ở huyện Giáp Sơn, lại đích thân soạn một đôi câu đối: “Cái thế anh hùng xưa nay ít. Công đức còn mãi đất trời lưu”.
Năm Chiêu Thống 1 (1787) sắc phong là “Thượng Đẳng Cương Chính Anh Uy Linh Cảm Đại Vương”.
Hàn Lâm học sĩ Ngô Thời Sĩ [49]khi thảo chế có câu: “Dải núi vươn anh khí, khôi giáp vọng ngời ngời. Quạt lông khăn lượt yên bể chướng, lễ thư tiết chế thực tướng tài. Đai ấm áo cừu, vững Hoành sơn trung tín dậu phên. Sự văn kinh võ vĩ, công tích còn lưu thư khoán, ơn sủng hoa càng tỏ nghi chương.”
Các đời vua triều ta[50]có khen ngợi sống làm tướng, chết làm thần, ấy là nói về ông vậy. Ông thọ 40 tuổi[51], mai táng ở Kì Sơn Nghệ An. Nay từ đường phụng thờ ông tại Khinh Dao, Hải Dương, tức là nguyên quán của ông. Thế mạch trường lưu, hương hoa không dứt, con cháu sau này tuy có thiên chuyển nơi khác nhưng vẫn không mất, nối dõi làm bậc hào trưởng, rạng rỡ đời sau. Điều đó há chẳng phải là sự mở mang sau này tất phải nhờ người đi trước hay sao.
Vợ cả họ Lý, húy là Thường, là con gái của Tham quân họ Lý ở Sơn Tây. Bà sinh hạ được một con trai tên là Đình Trực. Năm Cảnh Hưng 3 (1742) đỗ Hương Cống, được bổ Hàn Lâm Thị Giảng. Phái ấy được ghi chép vào Gia phả ở Hải Dương, con cháu đời đời kế tục đỗ đạt đăng khoa. Có một con gái tên là Ngọc Tường gả cho Tiến Sĩ họ Ngô ở Hoài Đức. Thọ 28 tuổi, mất năm Cảnh Hưng thứ nhất (1740); Bà vợ kế họ Trần húy là Kiều, là thứ nữ của Thị Lang họ Trần người Thanh Hóa, là bào tỉ của Trần Danh Lâm, Đốc Thị ở Hoan Châu. Năm 18 tuổi về với Quận công ta, rất có đức vợ hiền, chăm sóc con đích như con mình đẻ ra. Gặp thời loạn giặc Cầu, Quận công 10 năm ở bên ngoài, phu nhân trị gia rất đáng khen. Bà sinh hạ được ba con trai, trưởng là Đình Long được ấm thụ hàm Hàn Lâm, làm quan đến chức Giám sát Ngự sử. Con trai thứ là Đình Xương, năm Cảnh Hưng 15 (1754) đỗ Phó bảng[52], làm Đốc học ở Hải Dương, sau được thăng chức Binh Bộ Thị Lang. Hai phái ấy được ghi chép riêng vào Gia Phả ở Hải Dương. Con cháu nhiều đời đỗ đạt. Lại có một con gái tên là Ngọc Sính gả cho Cống Sinh họ Nguyễn ở Thanh Hà. Con trai thứ ba là cụ Thái tổ họ Phạm nhà ta.
***
Kết thúc phần tư liệu về Phạm Đình Trọng, một nhân vật lịch sử, một danh tướng xuất thân khoa bảng thời Lê - Trịnh. Chúng tôi xin được dùng lại lời nhận định về ông trong Khâm định Việt sử thông giám cương mụcnhư sau: Đình Trọng cầm quân đánh giặc, từng thống lãnh quân các đạo, đi đến đâu giặc đều tan vỡ. Nói về công đánh dẹp, Đình Trọng là người chiếm giải nhất. Trịnh Doanh viết lối "phi bạch" bốn chữ "văn võ toàn tài" ban cho, lại cho biển ngạch khắc chữ "đồng hưu công thần", phong cho thái ấp vài ngàn hộ. Đình Trọng là một viên tướng có Nho học, giữ vị vọng quan trọng, dầu ở nơi biên trấn mà sĩ phu không ai là không tưởng mến nghi phong thái độ[53].
Thư mục tham khảo
1. 范家谱志前编Phạm gia phả chí tiền biên. Tư liệu Hán Nôm sưu tầm
2. 皇越文选Hoàng Việt văn tuyển. Bùi Huy Bích biên tập.
3. Nguyễn Minh Tường. Phạm Đình Trọng và bài Tượng đầu đoán tụng ký (Tạp chí Hán Nôm, Số 3(88) 2008; Tr.50-59);
4. Nguyễn Minh Tường–Đỗ Lan Phương. Bài Văn tế Phạm Đình Trọng của Tiến sĩ Trần Danh Lâm (Tạp chí Hán Nôm, Số 3(100) 2010; Tr. 51-57).
5. Ngô Đức Thọ. Nghiên cứu chữ húy Việt Nam qua các triều đại. Nxb Văn Hóa, 1997.
6. Văn bia đề danh tiến sĩ Việt Nam.Trịnh Khắc Mạnh. Nxb Giáo dục Hà Nội 2007.
7. Quốc Sử Quán Triều Nguyễn. Khâm định Việt sử thông giám cương mục (Viện Sử Học) Nxb Giáo Dục - Hà Nội 1998.
11. www.nomna.org/ - Vietnam
12. http://vi.wikipedia.org/wiki/Phạm_Đình_Trọng_(tướng_nhà_Lê-Trịnh)
[1] Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục - Chính Biên - Quyển XLI
[2] Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục - Chính Biên - Quyển XL
[3] Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục - Chính Biên - Quyển XLI
[4] Gia phả ghi ông thi đỗ năm 16 tuổi, mất thọ 50 tuổi.
[5] Nguyễn Minh Tường. Phạm Đình Trọng và bài Tượng đầu đoán tụng ký (Tạp chí Hán Nôm, Số 3(88) 2008; Tr.50-59); Nguyễn Minh Tường – Đỗ Lan Phương. Bài Văn tế Phạm Đình Trọng của Tiến sĩ Trần Danh Lâm (Tạp chí Hán Nôm, Số 3(100) 2010; Tr. 51-57).
[6] Tương truyền Phạm Đình Trọng bắt được Nguyễn Hữu Cầu ở Nghệ An, chúa Trịnh Doanh bắt được Nguyễn Danh Phương ở Lập Thạch. Trên đường giải Cầu về Kinh, gặp chúa Trịnh cũng giải Danh Phương về. Chúa Trịnh mở tiệc mừng công bắt Danh Phương hầu rượu, bắt Hữu Cầu thổi sáo. Về Kinh cả 2 cùng bị xử tử.
[7] Hai tác giả này đều dựa vào nguồn Hoàng Việt văn tuyển của Bùi Huy Bích.
[8] Chữ Chiêu 昭viết kiêng húy triều Nguyễn, bớt nét trong bộ Nhật日. Trịnh Chiêu Tổ tức Trịnh Căn. Văn bản viết dưới thời Nguyễn, mang quan điểm phong kiến bài Trịnh tôn Lê, nhiều chi tiết liên quan đến chúa Trịnh đều được gia phả thể hiện thay bằng vua Lê.
[9] Ngũ Hồ: là năm hồ lớn nổi tiếng cảnh đẹp ở Trung Quốc là: Thái Hồ, Động Đình Hồ, Tây Hồ, Đan Dương Hồ, Nhạc Châu Hồ.
[10] Nguyên văn chữ Nôm.
[11] Chữ Thời 时viết kiêng húy thành chữ Thìn辰.
[12] Chữ Tôn 尊viết kiêng húy của chữ Tông 宗. Theo năm sinh là 1714 thì năm ông thi 1739 ông phải 25 tuổi. Gia phả ghi 16 tuổi, theo đó dưới lại ghi ông thọ 50.
[13] Quận Gió: nguyên văn chữ Nôm, có thể là một thủ lĩnh khởi nghĩa, chưa rõ là nhân vật nào. Nhưng giai thoại Việt Nam, thời Lê cũng có chuyện về một nhân vật trộm của giàu chia cho người nghèo, xưng là Quận Gió. Có thể Quận Gió là từ chỉ quân ăn trộm nữa chăng?
[14] Nguyên văn là Tân Sửu, tra niên đại thì không đúng. Một năm 1721, Phạm Đình Trọng mới 7 tuổi; một năm 1781 là năm Cảnh Hưng 45, lúc ấy Phạm Đình Trọng đã mất hơn 30 năm. Theo chính sử thì Phạm Đình Trọng bắt được Nguyễn Cừ, Nguyễn Tuyển là năm Ất Sửu 1745.
[15] Nguyễn Cừ, Nguyễn Tuyển là hai thủ lĩnh nông dân khởi nghĩa. Nguyễn Hữu Cầu lúc đầu đi theo Nguyễn Cừ, được Cừ gả con gái cho.
[16] Nguyễn Cầu: tức Nguyễn Hữu Cầu là một lãnh tụ nông dân khởi nghĩa nổi tiếng thời Lê Trịnh.
[17] Quận He: nguyên văn chữ Hán là Quận Hiểu. Chữ Hiểu có thể đọc là Hẻo, nhưng không chính xác vì Nguyễn Hữu Cầu hiệu là Quận He, nên phải đọc là He. Có thể Gia phả có chút nhầm lẫn, vì tương truyền Nguyễn Hữu Cầu thường được xưng là Quận He, vì Cầu có tài bơi lặn giỏi như cá He ngoài biển. Tương truyền là thần cá biển thác sinh. Còn Quận Hẻo là tên xưng gọi của Nguyễn Danh Phương, người làng Hẻo, cũng là một thủ lĩnh khởi nghĩa, sau cũng bị bắt cùng thời gian với Nguyễn Hữu Cầu.
[18] Hạng Vương: tức Hạng Vũ, nhân vật lịch sử Trung Quốc, sức lực hơn người, có thể tay không nhấc đỉnh lớn. Diệt Tần đánh Hán, người ta quen gọi là Hạng Vương.
[19] Theo Bia Văn miếu Hà Nội thì Phạm Đình Trọng tham gia chủ khảo kỳ thi Tiến sĩ năm Quý Hợi đời Cảnh Hưng thứ 4 (1743), bia Tiến sĩ khoa này dựng năm Giáp Tí Cảnh Hưng thứ 5 (1744). Có thể có nhầm lẫn, hoặc giả thời điểm nhận chiếu Nhâm Tuất 1742, đến khi thực hiện 1743 và kết thúc quá trình lập bia đề danh là 1744.
[20] Hoàng ốc, Tả đạo: là nhà mái vàng, cờ cắm bên trái là những ngi thức lễ riêng dành cho Hoàng đế. Đây nói Nguyễn Hữu Cầu làm loạn, có ý xưng vương.
[21] Theo Khâm định Việt sử thông giám cương mục thì chúa Trịnh Doanh ngự bút viết lối phi bạch bốn chữ Văn võ toàn tài ban cho, lại ban biển ngạch Đồng hưu công thần. Vì gia phả biên tập dưới thời Nguyễn nên tư tưởng bài Trịnh tôn Lê, tác giả chép là vua Lê ngự bút còn theo chính sử thì là chúa Trịnh Doanh viết.
[22] Chữ Nhiệm 任viết kiêng húy khuyết 1 nét sổ trong chữ Nhâm壬.
[23] Chữ Ngọc玉, có 1 chấm bên phải, nếu ẩn dấu chấm đi thì thành chữ Vương王, nếu thò dấu chấm lên đầu thì thành chữ Chúa主.
[24] Chữ Thổ土, nếu cắt một bên để thuận thì là chữ Thượng上, nếu để ngược thì thành chữ Hạ下.
[25] Theo Khâm định Việt sử thông giám cương mục thì Phạm Đình Sĩ là thuộc tướng của Phạm Đình Trọng.
[26] Địa danh thuộc Trấn Yên Quảng, sau đổi là Quảng Yên, nay thuộc Quảng Ninh.
[27] Yên Quảng: tức tỉnh Quảng Ninh ngày nay.
[28] Long Môn: địa danh vùng biên của Đại Thanh, sát biên giới An Nam.
[29] Gia phả soạn vào thời nhà Nguyễn, có tư tưởng bài xích họ Trịnh.
[30] Bài này đã được Nguyễn Minh Tường theo nguồn Hoàng Việt văn tuyển của Bùi Huy Bích, giới thiệu trên T/c Hán Nôm,3/2008. Chúng tôi lược.
[31] Nguyễn Công Thái, chữ Thái còn có âm đọc là Thể, người làng Kim Lũ, Hà Nội, đỗ Tiến sĩ năm 1715, chức Quốc Tử Giám Tế tửu, Đông các Hiệu thư, hành Thị lang các Bộ Công, Bộ Hình, Bộ Lại. Một số tư liệu chép là tước Quảng Quận công. Là văn thần tể tướng hành Bồi tụng phủ chúa thời Lê Dụ Tông.
[32] Nguyễn Minh Tường giới thiệu Tạm dịch trên T/c Hán Nôm,3/2008.
[33] Tức Hoàng Việt văn tuyển do Bùi Huy Bích biên tập.
[34] Nguyễn Nghiễm: người Tiên Điền, Nghi Xuân, Hà Tĩnh. Là người có tài văn võ, được chúa Trịnh tin dùng, cũng là một bậc trọng thần đời Lê Trung hưng. Ông là thân phụ của Nguyễn Du.
[35] Trung nghĩa Đường triều: nói tấm gương Nhan Chân Khanh đời Đường, làm quan ở ngoài biên ải mà trung thành không hàng giặc.
[36] Ngũ Trượng: gò Ngũ Trượng, nơi tướng nhà Hán là Gia Cát Lượng thấy điềm sao sa, mang trọng bệnh mất ở trong quân thứ trên đường hành quân phạt Ngụy.
[37] Thái Dĩ: Tên bài thơ trong Kinh Thi – Tiểu Nhã, nói về tướng quân Phương Thúc đời Chu Tuyên vương chinh phạt man di, trị quân nghiêm mật, uy danh lớn, đánh đâu thắng đó. Có ý ví với Phạm Đình Trọng.
[38] Trần Danh Lâm: Người làng Bảo Triện, Gia Bình, Bắc Ninh, đỗ Tiến sĩ năm 1731, làm quan có nhiều công trạng, từng trấn giữ các địa phương, đánh dẹp họ Mạc. Công lớn được giao chức Bồi tụng, trong phủ Chúa. Gia đình dòng họ ông có nhiều người thi đỗ hiển đạt, như anh ông Trần Danh Ninh, con trai ông Trần Danh Án. Trần Danh Án có Bào tỉ là Kế thất của Phạm Đình Trọng
[39] Bài này cũng được Nguyễn Minh Tường-Đỗ Lan Phương theo nguồn Hoàng Việt văn tuyển của Bùi Huy Bích, giới thiệu trên T/c Hán Nôm,3.2010. Chúng tôi lược.
[40] Bùi Tấn Quốc: tức Bùi Độ, được phong Tấn Quốc công. Xưa Bùi Độ nhà hàn vi, có vị tăng xem tướng bảo là sau tất chết đói phải sớm tu nhân hành thiện. Bùi Độ ra sức hành thiện tu nhân. Thời gian sau lại gặp lại vị tăng kia, xem tướng lại thấy ngạc nhiên vì thấy Bùi Độ có tướng làm Tể tướng triều đình. Sau quả nhiên như lời.
[41] Quách Phần Dương: tức là Quách Tử Nghi, danh tướng đời Đường. Dù công cao tột bậc vẫn trung vua ái quốc. Có công dẹp loạn An Sử, không cậy công trạng, nhiều lần bị bãi vẫn không hai lòng. Thọ hơn 80 tuổi. Được phong Phần Dương vương.
[42] Thiệu Công: Em Chu Công, có công giúp nhà Chu diệt Thương, bình định nội loạn được phong ở đất Yên, dân chúng nhờ ơn đội đức. Ông thường làm việc dưới gốc cây Cam Đường. Nhân dân lây đó làm kỉ niệm, cứ thấy bóng Cam Đường như thấy Thiệu Công ở đấy.
[43] Tỏ ý nhớ tướng tài nhà Chu, cũng như Thiệu Công ở trên.
[44] Tùng Nhạc: tức là chỉ núi Thái Sơn; Thương Minh: tức là nói biển khơi
[45] Chấp phất执绋: có nghĩa là đưa ma, hoặc cầm dây dong áo quan tiễn đưa.
[46] Cửu kinh九京: chỉ mộ của quan Đại phu thời Xuân Thu, sau cũng chỉ mộ nói chung, cùng nghĩa như Cửu Tuyền.
[47] Chữ Hoa kiêng húy.
[48] Bùi Huy Bích: người làng Định Công, Hà Nội. Đỗ Tiến sĩ năm 1770, sau thăng Nhập thị Bồi tụng, từng có thời gian làm Đốc đồng, Hiệp trấn Nghệ An.
[49] Ngô Thời Sĩ: người làng Tả Thanh Oai, nay thuộc Hà Nội. Đậu Hoàng giáp năm 1766, đời Cảnh Hưng, là văn nhân, sử gia nổi tiếng thời bấy giờ, cũng được các chúa Trịnh tin dùng, đảm nhận nhiều chức vụ quan trọng. Là thân phụ của Ngô Thời Nhiệm.
[50] Tức triều Nguyễn.
[51] Nguyên văn gia phả ghi thọ 50 tuổi.
[52] Đời Lê chưa có danh hiệu Phó bảng. Đây là lối chép đời Nguyễn. Hơn nữa ở đây có sự nhầm lẫn là, năm Cảnh Hưng 15 (1754) cũng là năm Phạm Đình Trọng mất tại nhiệm sở, theo lệ phong kiến cha mất là đại tang không được phép đi thi. Không rõ chi tiết này như thế nào, có thể con ông thi đỗ trước khi ông mất. Chúng tôi dịch theo nguyên văn để tham khảo.
[53] Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục - Chính Biên - Quyển XLI
PHỤ LỤC
Trang 1a |
Trang 1b |
Trang 2a |
Trang 2b |
Trang 3a |
Trang 3b |
Trang 4a |
Trang 4b |
Trang 5a |
Trang 5b |
Trang 6a |
0 nhận xét :
Đăng nhận xét